Men theo ký ức đã
mù mờ do năm tháng và những đổi thay của khung cảnh đường phố, tôi đến chỗ con rạch
nhỏ gần một nghĩa trang bề thế ở ven châu thành Bến Tre, vô quán nước hỏi đường
đến tư gia nhà văn Trang Thế Hy. Năm sáu cao bồi vườn xồn xồn đương hội họp
nhâm nhi bia sớm hững hờ về cái tên xa lạ. Vài người lơ đảng nhúng môi vô ly tiếp
tục chầu vui. Sắp thất vọng trở ra thì tiếng một cô gái lui cui bỏ dừa vô bao cà-ròn
cách đó không xa hỏi vọng lại “Phải chăng bác hỏi Ông Ba
nhà văn?”.
Tôi gật đầu cầu may và được chỉ đi dọc theo con kinh vào chừng
100 thước. Cô gái còn mách lẽo thêm ông Ba trong dịp Tết nầy mới lãnh giải thưởng
văn nghệ cao cấp của tỉnh nhà. Mừng thầm cho nhà văn mình mến mộ, ít ra giải
thưởng cũng đem lại chút ít vật chất cho người có công với văn nghệ khi về già,
cũng như đem lại phần nào sự hãnh diện cho xứ sở đã sanh thành ra ông. Nhớ lại
khi tôi còn rất trẻ đã đọc tác phẩm của ông, và những người nổi tiếng đồng thời
như Lưu Nghi, Khổng Nghi... trên những số báo Nhân Loại in tại một nhà in trên
đường Bến Chương Dương mà tôi nao nức đón đợi từng số một từ vài ngày trước khi
số báo mới được phát hành. Sau nầy lớn hơn một chút, thỉnh thoảng đọc ông trên tạp
chí Bách Khoa, cái rộn ràng chờ mong của thời mới lớn không còn nhiều nhưng sự
thích thú thưởng thức không hề suy giảm. Ông viết ít nhưng mỗi bài đưa ra một
vài vấn đề vang dội trong tâm trí người đọc. Truyện có dư vị đăng đắng, không ở
trạng huống bi thảm trên số phận của nhân vật mà ở những cách thế suy nghĩ, ở thái độ hành xử đặc biệt của
nhân vật. Tất cả đều bước ra ngoài sự bình thường đơn điệu hằng cữu, khác xa với
những phản ứng thường nhật thấy ở con người tiêu biểu, chung chung. Với tôi, truyện
của ông nặng về lý trí hơn tình cảm, không dễ đọc một mạch để cho ta biết cốt lỏi
của vấn đề, truyện ông kén người thưởng thức, nhưng khi người đọc đã chịu thì ông là một tác giả không thể
quên trong bao nhiêu người viết mà mình từng hâm mộ.
Vào tới cửa ngỏ
nhà ông, nhìn khu vườn không nhiều chăm sóc, cỏ phủ kín khoảng sân và hàng ba
lót gạch tàu mốc rêu xanh dờn. Mấy con chó sủa vang dội. Một phụ nữ trung niên
ra mở cái cổng khép hờ, la đàn chó và mời khách vào. Chúng tôi được mời vào căn
chái bên hông nhà, có lẽ đó là nơi tiếp khách tươm tất nhất của chủ nhơn với chậu
vạn thọ trong góc hè còn vương màu Tết. Ra tiếp chúng tôi với cặp mắt già nhấp
nháy nhìn khách, ông cố lôi trong trí nhớ coi khách là ai. Dáng chậm chạp từ tốn
pha trà, thong thả đặt khay mứt còn lèo tèo mấy miếng gừng, mấy cục thèo lèo xanh đỏ lên bàn mời khách như để
kéo dài thời giờ đào sâu trong ký ức về một hình ảnh đã nhạt nhòa. Sau những
câu thăm hỏi xã giao, chủ khách đã phá tan được lớp băng giá e dè khi nhà văn nhớ
lại khách đã đến đây hàn huyên vài lần, câu chuyện trở nên thân tình hơn, vào
trong tâm sự hơn khi khách nhắc đến vài bạn văn xưa đương thời với ông.
Nhà văn năm nay đã
86 tuổi, đương sanh sống trên mãnh vườn nhỏ với hai người con cũng xấp xỉ 60, với
chút ít huê lợi cây trái đắp đổi qua ngày,sức khỏe có suy nhược do tuổi già
nhưng trí nhớ thì rất phi thường. Bặp bặp một hơi thuốc theo thói quen, ông chậm
rải kể chuyện xưa, chuyện nay, thỉnh thoảng trầm ngâm về dĩ vãng, nhớ lại những
biến cố trong đời hay những nhận định có nhiều giá trị. “....Tôi vào rừng Tây Ninh giữa năm 1963. Bị người
tố cáo nên sau khi ở tù ra thì đi liền. Vào đó cùng sinh hoạt chặt chẽ với anh
Lý Văn Sâm. Anh Sâm người hiền từ, ốm như tôi, lớn hơn tôi 4 tuổi, chúng tôi
coi nhau là bạn văn, chia sẻ những suy nghĩ văn nghệ. Sau nầy về Sàigòn, chúng
tôi vẫn còn thân thiết. Điều lạ là ở trong đó tên tôi là Tư Sâm. Tại sao hả?
Tình cờ thôi, đặt là đặt vậy, không có lý do gì trong cái thứ và cái tên. Anh
Lý Văn Sâm vào đó trước tôi sau khi phá khám, Dương Tử Giang bị chết trong vụ nầy...”
Hoặc vài chi tiết vui vui: ‘Năm 1989 tôi
được Hội Nhà Văn đề cử đi Liên Xô cùng với một người nữa, đi 10 ngày, mà xứ sở
của người ta minh mông quá xá nên mình cũng chẳng thấy được bao nhiêu. Đời sống
lúc đó chưa ổn định, cái áo veston thì mượn của Lý Văn Sâm, cái quần thì mượn của
người khác. Lúc đó...’. Nhà văn ngừng
ngang, không nói hết ý, vài phút sau mới tiếp. “Bây giờ anh Lý Văn Sâm nằm ở nghĩa trang Thành phố, mã đá hoa cương rất
đẹp...”
Tôi tìm trong ánh
mắt nhà văn một tình cảm gì đó khi nói mấy chữ sau cùng, thoáng ao ước hay khen
tặng.. Cặp mắt ông như xa vắng sau làn khói thuốc mỏng.
Người nghe ghi nhớ
những chi tiết cần thiết, những chi tiết không phải dễ được nghe từ người có
dính dáng đến những nhân vật thế thời.. Cuộc chiến vừa qua đã cuốn lôi bi thiết
biết bao nhiêu người vào cuộc. Kẻ đúng người sai trong sự lựa chọn, kẻ tự nguyện
kẻ bị dòng đời đẩy xô vào, nhưng tấm lòng vì nước của từng người, từng trường hợp
cho đến giờ vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Tôi nhìn lại nhà văn, móm mém chậm
chạp, phong trần theo dấu thời gian tuy nét thanh nhã xưa vẫn còn có thể nhìn
thấy phưởng phất trong ánh mắt thiệt hiền từ và trong sáng.
Tôi nhắc về bức họa
chân dung rất có thần treo trên vách mà mình thấy lần trước cách đây mấy năm,
ông xác nhận chân dung đó do danh họa Nguyễn Trung, trong nhóm Họa Sĩ Trẻ của
Sàigòn thập niên 60, vẽ tặng. Nguyễn Trung ít vẽ chân dung nam, dường như là chỉ
vẽ có hai người thôi, còn đều vẽ chân dung phụ nữ. Tôi nghĩ lơ mơ về chỗ dựng xứng
đáng của bức tranh nầy khi nhà văn nằm xuống, như bức tranh chân dung nhà văn
Sơn Nam, chiếm một vị trí trang trọng ở nhà lưu niệm Sơn Nam nơi cống Bảo Định
Tiền Giang, do họa sĩ thời danh Nhốp múa cọ...
Nhắc đến số lượng
truyện ngắn của hai người, về những sáng tác gần đây, tôi phàn nàn rằng mình mất
quá nhiều thời giờ cho những bài biên khảo và chuyện phiên âm chữ Nôm nên phần văn
nghệ thuần túy không được phong phú như ý muốn, ông lý giải rất thuyết phục về
sự đa dạng của văn chương. Có loại làm người đọc động lòng, có loại khiến độc
giả động não. Loại nào cũng thể hiện được bản lĩnh của người cầm bút. Nhận định
sâu sắc của nhà văn khiến tôi nhớ đến một truyện ngắn mà ông đăng trên tạp chí
Nhân Loại ngày xưa, trong đó nhân vật chánh, một cô xẩm trẻ đã chê nhà văn nhát
gan khi không dám cho nhân vật mình chết khi đáng chết.
Tôi bắt gặp ánh mắt
trầm tư của nhà văn, vừa xa vắng vừa mỉm cười hóm hỉnh: ‘Truyện đó mang tình cảm sâu đậm của tôi. Sự thật trong truyện đó thiệt
là nhiều. Cô xẩm trẻ sau đó chịu chết cháy vì không muốn làm đồ chơi cho một trọc
phú đã đặt mua cô ngay khi cô tuổi mới 12, 13.’ Tôi không dám trơ trẻn hỏi
về sự thật liên hệ giữa nhà văn và nhân vật nữ nầy ở ngoài đời. Có những điều bạn
đọc, bạn viết muốn hỏi nhà văn lắm nhưng phải cố dằn lòng bỏ qua dầu biết rằng
chi tiết đó sẽ đem lại một cái nhìn rõ ràng hơn về tác phẩm nào đó của nhà văn.
Hình như nhắc đến
truyện ngắn nầy nhà văn nhớ đến chuyện tình yêu, ông đề nghị hai người chúng
tôi, mỗi người đọc cho ông nghe về một bài thơ của Tagore mà ông đã dịch từ một
bản Pháp ngữ mới in trong tập thơ mỏng Đắng
và Ngọt.
Tôi đọc, cố rõ từng
chữ một vì là lần đầu tiên mình đọc bài thơ nầy. Bài thơ như đa số những bài
khác của Tagore, thuộc loại ẩn dụ, không dễ gì thông hiểu khi chưa có nhiều thời
giờ suy nghĩ: ‘ Em đã xếp tôi vào chỗ
dành cho những người thua trận/ Tôi biết rằng quyền chiến thắng cũng như quyền
rút ra khỏi cuộc chiến không thuộc về
tôi/ Tôi lao xuống vực thẳm, quyết chạm cho được cái đáy của vực thẳm ấy/ Tôi
chơi canh bạc của người thua trận/ Tôi ném vào canh bạc ấy tất cả những gì tôi
có, và khi đã mất tất cả mọi thứ rồi, tôi sẽ ném luôn vào đó tấm hình hài xương
thịt của tôi....’
Nhà văn góp ý: ‘Kẻ
thua bạc nầy đã đặt tới số vốn cuối cùng của đời mình. Đó là hình hài mình.
Không còn diễn tả nào cặn kẻ hơn, tận cùng hơn về hình ảnh kẻ thua. Tận cùng!.
Nhà văn thốt ra hai tiếng ngắn gọn và lại
trầm ngâm trong tư tưởng gợi ý từ lần nghe mới. Tôi thông hiểu tâm trạng đó.
Bài thơ tuyệt phẩm là bài thơ khiến ta mỗi lần đọc lại khám phá ra thêm ý mới
và dễ kéo ta vào những suy tư bất tận mới. Lâu lắm ông mới lên tiếng. ‘Bài thơ
đưa ẩn dụ về tình yêu. Kẻ thua cuộc là kẻ không được yêu lại nhưng vẫn hết mình
đối với tình yêu đó, kể cả cái chết . Yêu là vậy!’
Nhìn ông già móm
mém hom hem bàn luận về chuyện yêu đương, về thơ ca diễm tuyệt, tôi thấy mình
thật may mắn, thật hạnh phúc khi lắng nghe: Đời người không phải dễ có những
phút giây như vậy. Duyên văn nghệ chăng, cơ may chăng? Cao hứng tôi xin phép đọc
bài thơ mình vừa khai bút đầu Xuân mấy
hôm trước, tặng bạn văn già :
Sãy chân lạc bước xuống đời, / Xin chào thế giới bằng lời u-oa. / Lưng còng mắt kém, sần da,/ Tay run gậy trúc, trí dần dà quên./ Thở hơi không nỗi nằm tênh. /Bao nhiêu chủng tử lềnh bềnh phổi gan./ Uổng công nắm bắt thời gian, / Sá gì dẫu có triệu ngàn kiếp sanh /Ta bà vây khổn quanh mình, /An nhiên tự tại rẽ khinh mọi điều.’
Nhà văn
nhắc lại hai câu cuối và chép miệng. ‘An nhiên tự tại không phải dễ gì. Rẽ
khinh mọi điều còn khó hơn.’ Trước khi từ giã, tôi đề nghị chụp một bức hình lưu niệm.
Ông đứng sát vô tôi, nhỏ nhoi, nhẹ hỏng, nói như dặn dò nghiêm nghị : ‘Tốt khoe xấu che nha, hình chụp làm kỷ niệm
nha, không nên đưa ra công chúng lúc nầy.’
Tôi hiểu lời dặn như sự né tránh đám đông của người già.
Tới tuổi nào đó sự đơn giản, hiu quạnh lại là thói ưa; ồn ào, hình thức phô
trương nào về mình cũng làm mình thấy khó chịu... Trên đường về lại Sàigòn, gặp
một tấm bảng quảng cáo lớn bằng cả một
tòa nhà đập vào mắt hàng chữ: “Chào mừng
sự kiện tiêu thụ kỷ lục 1 tỷ lít bia X..”, tôi xúyt xoa với bạn đồng hành:
‘Phải chi một vài tấm bảng kia là hoan
nghinh tim óc của của nhà văn già hết đời với xứ dừa thơ mộng thì hay biết mấy!’.Con
đường về đượm nhiều nét âm u của buổi chiều tà, tự dưng tôi thấy buồn lòng với
ý nghĩ đó.
Nguyễn Văn Sâm
(Sài-thành, đêm Nguyên Tiêu Tân Mão, 2011)