![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjbgw1DMSibGWzC27JuNgDTbV68uwiatxFguMmwXDfKsdO8Uysp6Be9mnss6whVF36SqsIZsYSVD9KxPihyphenhyphenQC2IZjr8KIvuyoOjelxvO1oG4ZiiHbMxZvtkp4-hH5riu_aTHkiMlzqtPa8P/s400/ONGDAOCHU.jpg)
1.
Ông Đạo Chuối ngồi xuống ghế, cẩn thận phủi hai bàn chưn vô nhau trước khi đứng dậy bước vô chiếu, xếp bằng. Ông từ tốn đốt ba cây nhang, xá tả hữu và chính diện mỗi phía ba xá rồi cắm vô lư hương nhỏ trước mặt. Tay trái ông giơ lên ngực làm dấu bắt ấn, tay mặt nhè nhẹ gõ ba tiếng chuông, trầm tư theo dõi âm thanh chuông vang vọng, lơ đảng ngó ngọn khói lững lờ tỏa lên không trung. Chừng nhang tàn một phần thì ông nhắm mắt lại, định trí cho tâm vắng không. Những câu kinh hay lời di huấn của sư phụ cũng không có mặt lúc nầy. Thế giới thực tại đã biến khỏi tâm ông.<!->Tiếng ồn ào tụi nít nhỏ trửng giởn trước sân am, tiếng lũ thanh niên hư hỏng lớn họng bàn tán về cái tên Đạo Chuối để rồi cười cợt đều không vô trong trí. Ông nhập định mỗi ngày tàn hết hai tuần nhang cho buổi Ngọ thời và lúc xế chiều sau khi thỉnh chuông thu không. Xong buổi tọa thiền ông mới làm những công việc khác, mỗi ngày như vậy không bao giờ thay đổi. Con chó vện luôn luôn nằm ngoài chiếu lim dim ngủ nhưng hỉnh mũi dõi từng động tỉnh của chủ.
Trưa nay sau buổi tọa thiền, ông bước ra khỏi
chiếu, xếp lại cái gối cũ dùng làm bồ đoàn để vô góc dưới chưn bàn thờ Phật,
bước ra tiếp khách.
Khách là một người phụ nữ trạc chừng ba mươi,
mặt mày thanh tú, nét buồn và sự lam lũ để lại trên dung nhan đó những lằn cằn
cỗi ở đuôi mắt không che lấp được một nhan sắc ngày xưa. Đứa bé gái chừng
mười tuổi, con gái của khách, áo quần tuy tươm tất nhưng đã cũ, cái áo hơi chật
và cái quần ngắn lòi mắt cá, lẩn quẩn nắm vạt áo mẹ không rời mà mắt ngó chăm chăm
vô nải chuối sứ mập tròn Ông đạo chưng cúng ở một cái bàn nhỏ thấp chỗ
ông tham thiền. Ông vói tay lấy đưa nguyên nải cho đứa nhỏ. Nó e ấp nhận bằng
hết hai tay, ôm vô sát trong lòng như sợ người cho đổi ý. Người mẹ có vẽ như
không bằng lòng cử chỉ của con nhưng không rầy, chỉ cám ơn nho nhỏ giùm con.
Đứa nhỏ vui mừng ra mặt rồi ngước mắt lên ngó
mẹ, trong khi một tay vuốt vuốt những trái chuối tròn mập, bóng loáng:
‘Má, má! Hết nải chuối nầy là của con hả má?’
Ông đạo vuốt đầu đứa nhỏ, nói:
‘Phải, đó là của con. Khi con về, sư hiến cho
con thêm mấy nải nửa, chỉ sợ con xách đi không nổi thôi! Hôm nay mười tư rồi.
Mai là ngày vọng, ông thay chuối khác.’
Người mẹ nói nhỏ, giọng nhẹ nhàng như lúc cám ơn
hồi nảy:
‘Xin sư phụ đừng nuông chìu bé quá, chúng đệ tử
không dám tham lam lộc Phật đâu.’ Vừa nói người đàn bà vừa ngó xuống đất trước
mặt. Ông Đạo cảm thấy người đối diện quan sát bàn chưn trần của mình liền giải
thích:
‘Sư quan niệm rằng nhân sinh sống ở giửa Trời và
Đất, nối kết Đất với Trời nên phải để thân mình tiếp xúc trực tiếp với Đất
Trời. Chưn Người không nên mang giày dép, đầu Người không cần đội nón. Do đó
khi làm lễ Phật cũng như lúc đọc kinh cầu siêu… sư đều không mang hài, cũng
chẳng đội mão tì lư… Những thứ đó người đời mới bày đặt ra sau nầy thôi.’
Câu nói đưa đến vấn đề tế nhị nên không khí
ngưng động một lúc khá lâu.
Con chó chùa đứng dậy hực hực. Một vài đứa nhỏ
thập thò trước cửa am. Tiếng một đứa mét tấn ơn:
‘Ông Đạo Chuối ơi, thằng Thìn nó nhảy vô bốn cái
lu mái chứa nước mưa của ông đạo nó tắm, nó kỳ cọ trong đó. Ông ra gõ óc nó đi.
Nó không sợ tụi con!’
Ông Đạo Chuối từ tốn khoát tay cho mấy đứa nhỏ
tản ra, rồi quay lại phân trần với khách:
‘Chuyện các cháu nhỏ phá phách là một trong
những thử thách cho người tu hành. Cần chế ngự sự giận dữ. Mưa năm nay hơi
thiểu, trận mưa nào sư cũng láy máng xối hứng mà có bấy nhiêu. Đứa nhỏ tắm
trong đó thì coi như nó muốn tắm nước Trời, nước Phật, sau nầy thì sư cũng dùng
nước đó mà ăn uống thôi. Không nên quan trọng chuyện nhỏ mọn. Không cần phải
giận, phải la. Tu hành cần nhứt là chế ngự con Quỷ Tam Bành!’
Người đàn bà rụt rè:
‘Đệ tử tới đây thú thiệt không phải để viếng am
mà tới để thú tội, nhờ sư phụ giải tội và cho đệ tử quy y.’
Ông Đạo ngó thẳng vô mắt khách:
‘Đạo hữu ngồi xuống ghế kia. Câu chuyện bộ còn
dài ha!’ Tiếng ha ông xuống giọng vừa có vẽ quê mùa đặc biệt
của vùng Thất Sơn vừa có vẽ thân mật với người đối diện.
Người đàn bà lấy nải chuối đứa bé đương ôm để
xuống ghế, bẻ hai trái đưa cho con, kêu nó bước ra trước cửa ăn chuối để má nói
chuyện. Chị ta chưa biết nhập đề chuyện riêng của mình như thế nào nên mở đầu
bằng câu vô thưởng vô phạt:
‘Chuối xứ của sư phụ trồng được đất
quá, coi ngon ớn. Đó chắc là thứ chuối danh tiếng của xứ nầy nên người ta mới
kêu là chuối xứ, xứ Thất Sơn vùng mình.’
Ông Đạo Chuối mỉn cười thân thiện, nhẹ nhàng:
‘Ờ.. ờ… thì cây trái bông huê thơm ngon mới được
quí chuộng. Xưa những thổ sản quí người Xiêm La đem cống sứ cho vua Đại Nam
Quốc nên chúng ta ngày nay mới có chuối sứ, bông sứ. Nhiều khi
người ta kêu rõ ràng hơn bằng chữ xiêm như chuối xiêm, dừa xiêm, mảng cầu xiêm,
vịt xiêm, tre xiêm…… Nói chung, những thứ sứ, thứ xiêm mới có ở xứ ta chừng một
trăm năm nay thôi. Hồi trước bà nội của sư nói những thứ đó rất quí, đã ít có
mà lại ngon. Mà nói về chuối thì mé sau vườn sư trồng ối thôi đủ thứ: nào
là chuối cao, chuối cơm, chuối lá trắng, chuối lá đen, chuối hột, chuối ngà,
chuối và tiên, chuối mật, chuối và lùn, chuối sen, chuối nanh heo.. chỉ
có chuối nước là sư chưa kiếm được giống. Vùng Thất Sơn mình
núi non, đá nhiều, ít sông rạch nên chuối nước rất hiếm.’
Ngừng một lúc để lấy hơi, ông Đạo chuối tiếp:
‘Thất Sơn hòn dọc dãi ngang, sư chọn chỗ nầy của núi Két để lập am là vì có
hòn đá tảng làm thế ỷ dốc với lại có một khu đất rộng tiện lợi cho việc trồng
chuối. Núi Sam đắc địa hơn nhưng không thuộc về Bảy Núi lại quá ồn ào, hỗn
tạp…’
Người đàn bà hờ hững nghe cho có lễ phép, trí
chị ta nghĩ về nguyên nhơn của danh từ Đạo Chuối. Ông đạo đã rành về chuối lại
thích ăn chuối thì thiên hạ kêu bằng Đạo Chuối là phải. Nghĩ tới đây chị bắt
tức cười mà cố nhín.
Đợi ông đạo ngừng hơi để thở, chị rụt rè:
‘… Thưa về chuyện của đệ tử… Chuyện xảy ra cũng
hơn mười năm nay rồi. Làm khổ lòng đệ tử từ đó tới giờ.’
Hơi cụt hứng một chút, nhưng ông Đạo vẫn bình
tỉnh trong việc chuyển đề tài:
‘Đạo hữu cứ kể những gì có thể kể được, không
cần đi vô chi tiết. Tội lỗi của ai thì người đó mang trên vai suốt đời dầu
thiên hạ biết hay không. Sức nặng đó tạo thành lòng dằn vật u buồn, bằng những
quyết định dại dột hay những xui khiến không may…’
‘Vâng, sư phụ nói rất đúng, nhiều khi con muốn
nhảy liều xuống giếng, xuống sông, nhưng nghĩ bỏ lại con thơ dại trên đời thì
tạo thêm nghiệp nặng khác nên nuốt nước mắt mà sống qua ngày. Thêm nữa, đời con
luôn gặp điều bất hạnh.’
Ông Đạo Chuối rót đầy một tách nước, đẩy ra
trước mặt người đàn bà đương rươm rướm mắt.
‘Nước trà sư dùng mỗi ngày là nước đậu nành
rang. Có công dụng tan đờm, giải nhiệt và tạm thời giải luôn những muộn phiền.’
‘Đệ tử cám ơn sư phụ,’ tiếng cám ơn phát ra
trong nghẹn ngào dầu người nói cố gắng mỉn cười. ‘Lỗi bằng trời nầy do lúc đó
đệ tử còn quá non dại, nghe những tiếng ngọt ngào và mấy cử chỉ săn sóc thương
yêu nên ngỡ là tình thiệt, mình được người chiều chuộng cũng gọi lấy làm vui và
có chút hãnh diện… Rồi chuyện phải tới đã tới. Lửa gần rơm!’
Người phụ nữ thúc thít khóc, đưa ống tay áo lên
chậm nhè nhẹ nước mắt:
‘Đệ tử mắc tội ‘Khoai lang nấu trộn khoai mì’,
chắc sư phụ biết rồi.’
Người đàn bà ngừng nói hơi lâu, giương cặp mắt
đau khổ nhìn ông đạo. Ông tránh mắt của người đối thoại, quay mặt ngó ra ngoài
trước cửa am. Vẫn còn những đứa nhỏ trang lứa với bé gái con của người đàn bà
đứng ngó nó như ngó một sinh vật lạ mới gặp lần đầu.
‘Thôi đạo hữu không cần nói câu tiếp, sư hiểu
rồi. Về sau người đó đối xử với đạo hữu thế nào?’
‘Thì cũng thói ăn vụng muốn chùi mép nên kiếm
cách xua đẩy đệ tử đi, mặc cho số phận của oan khiên đương tạo hình trong thân
đệ tử. Bây giờ ông ta làm Hương Quản làng nầy, giàu có lớn, có xe hơi, quyền
lực chỉ thua Quan lớn người Pháp chủ quận Tri Tôn mà thôi.’
‘Hèn gì!’ Trông mặt bé, sư ngờ ngợ vì thấy quen
quen!’
Ông Đạo bưng tách nước của mình lên bằng cái
dĩa, uống từng ngụm nhỏ như muốn xài chút thời gian suy nghĩ câu gì đó phải
nói. Người đàn bà chờ đợi một lời rầy rà sau khi cố gắng thú tội. Không gian
trầm lắng, tiếng tụi trẻ la hét tuốt ngoài sân nghe rõ từng âm thanh.
Người đàn bà sửa lại thế ngồi:
‘Thưa sư phụ, đời đệ tử trầm trệ chắc là vì có
cái mụt ruồi viên hắc lệ dưới mi mắt mặt. Đệ tử đã lấy vôi ăn trầu phá nó lâu
rồi mà xui cũng hoàn xui, chuyện nầy nối tiếp chuyện kia khiến nước mắt đêm đêm
cứ tuông….’
‘Thiên hạ thường nói xàm như vậy! Đừng ngớ ngẩn
tin mấy chuyện nút ruồi hên xui. Người xưa đặt điều thôi. May rủi hên xui là do
hành vi của ta làm, do tâm ta hướng dẫn cái nghiệp của mình. Đừng tin bói toán,
phong thủy, chỉ là chuyện dối thế.’
Để tách nước xuống, ông Đạo chậm rãi:
‘Cũng đừng tin luôn chuyện cầu an, cầu siêu nữa!
Thế gian còn lậm quá nhiều dị đoan cần bỏ!’
Ngưng một lúc ông tiếp:
‘Chuyện quy y thì để sư chọn ngày. Trong thời
gian đó đạo hữu suy nghĩ lại về quyết định của mình.’
‘Dạ!’
‘Quy y không phải là thủ tục nhận pháp danh và
nhận phái. Quy y là thời khắc đặc biệt mà một tín hữu trở thành Phật
nhi bằng lời hứa với chính mình là giữ cái tâm trong sáng, làm thuần
tánh để đến được Chơn Như. Lời hứa đó quan trọng vì có sự chứng giám của đấng
thiêng liêng.’
‘Dạ!”
‘Phật nhi là con cái Phật, người quy
y chánh thức làm con cái Phật do cái tâm tịnh của mình. Người Phật tử là
người hiểu đạo nhưng đứng mé bên bờ đạo làm tín đồ, làm cư sĩ…’
‘Da!’
Con chó chùa nảy giờ nằm dưới chưn sư bỗng chồm
dậy khừ khừ về phía trước cửa am. Ông nạt nhẹ: ‘Tuệ! Im đi con!’ Con chó nằm
xuống im lặng quẩy đuôi nhưng mắt vẫn ngó ra trước sân.
Hai ba đứa con trai ở trần, ướt mem bước tới
ngạch cửa mét vọng vô:
‘Ông Đạo Chuối ơi, anh em Thằng Tỵ với thằng
Thìn chặt cái quài chuối trổ buồng bữa hổm bẻ mấy trái chuối đóng vóc nói
là đem về luộc để ông Đạo Chuối khỏi ăn chuối nữa kìa!’
Những tiếng cười khúc khích và những trận đuổi
bắt bùng vỡ tiếp ngay theo câu nói trên.
Người đàn bà nhịn không được, đứng lên tính nói
gì đó, ông Đạo khoát tay ra hiệu biểu ngồi xuống, cười cười nhân hậu:
‘Sư nói rồi, phải chế ngự quỷ Tam Bành. Phải
biết nhịn. Đó là bước đầu của người đi tu. Tụi nhỏ thèm thì cứ việc bẻ, thiếu
cứ việc chặt đem về. Sư còn mấy nải trong liêu cũng đủ ăn cả tháng, tiếc là
không có chuối tươi để cúng Phật thôi.’
‘Dạ!”
Ông Đạo Chuối bước vài bước ra khỏi am, ngoắc
vài đứa tới gần, nhẹ nhàng nói:
‘Chuối của sư mới đóng vóc, coi mập ú na ú nần
vậy mà chưa chín, ăn không được mà nấu thì xảm xì, chỉ có nước làm chuối chát
thôi. Nói với Thìn và Tỵ nải nào lỡ chặt thì thôi, đừng chặt nữa!’ Nói
xong ông đi vô, ngại rằng đứng lại tụi nhỏ không được tự nhiên.
Ngồi xuống ghế ông tiếp tục:
‘Đạo hữu thấy đó, tu hành luôn luôn có những thử
thách. Phải biết nhịn. Nhịn giận, nhịn thua!’ Nói rồi ông Đạo Chuối đọc thiệt
mau:
Sư phụ của sư lúc chưa hóa, có mấy câu thiệu này
hay lắm dùng để làm châm cho Phật nhi: Ít uống rượu, ăn nhiều cháo, không
ăn thịt, ăn nhiều rau, ít mở miệng, nhiều nhắm mắt, năng tắm tửa, ít trau giồi,
thiểu chung chạ, đa riêng tư, ít vàng bạc, nhiều sách vở, ít cầu danh, nhiều
nhịn nhục, ít ham sang, nhiều làm phước, biết nhịn thua, thương cây cối, không
chấp trước…
Sợ khách không hiểu mấy chữ hơi xưa, ông giải
thích: ‘Ít trau dồi’ là đừng quá chú trọng đến làm đẹp, có
thể quên đi bóng sắc mình, trau dồi bóng sắc mình là nguồn gốc sanh tội lỗi cho
mình và cho người.’
Người đàn bà thở dài như thấm ý nguyên nhơn nỗi
khổ của mình.
‘Dạ!’
‘Không chấp trước là không chằn chằn theo một
quyển kinh nào mà phải thoáng để học những điều mới. Thương cây cối là quý từng
gốc cây ngọn cỏ chung quanh. Đó là một phần của đất nước mình, là hồn thiêng
ông bà mình trong đó, không phá hoại chúng vì những lợi lộc của mình.’
‘Dạ!’
Ông Đạo Chuối nói tới đây thì nước mắt rưng
rưng, gượng cười nhè nhẹ:
‘Tóm lại, cần nhứt là cái tâm, tâm còn động, còn
để buồn vui, tham giận mê hướng dẫn mình là điều nên tránh. Tâm phải tịnh.’ Rồi
ông ngâm nga:
Viên thục mã thuần mới thoát trần,
Công thành hạnh mãn thấy Chơn Như.’
‘Dạ!
2.
Tôi từ giả sư ra về mà trí như mông lung. Nắm tay con tôi thầm nói: Sư giảng dạy nhiều nhưng đệ tử thu nhận không được bao nhiêu vì còn mang nặng nghiệp chướng. ‘Nhìn nhận mình đã làm điều gì sai trái thể hiện lòng thành thật không phải ai cũng làm được. Sai trái càng lớn thì sự thành thật càng bao la và giá trị con người mình càng tăng. Đó là căn bản của đường tu nghĩa là sửa mình, nghĩa là sám hối, chớ không phải tu là tụng kinh, gõ mỏ hay lạy Phật thường xuyên.’ Lời sư nói như xa gần khuyên tôi nên thú tội với dì mình về chuyện đã phạm hơn mười năm trước. Tôi dắc con đi về phía căn nhà mình sống khi tuổi mới lớn, nơi từng rung động con tim vì những cử chỉ săn đón, chăm sóc của ông ta mà không biết mình đương bị dẫn dụ vô cái bẩy nhớp nhúa làm lở dở cuộc đời. Tôi nhớ lúc mình cảm động và đã mềm lòng cho ông ta vuốt tóc khi ông ngâm nga mấy câu thơ ông ăn cắp ở đâu đó tôi tưởng ông đặt ra riêng tặng cho tôi…
Tôi từ giả sư ra về mà trí như mông lung. Nắm tay con tôi thầm nói: Sư giảng dạy nhiều nhưng đệ tử thu nhận không được bao nhiêu vì còn mang nặng nghiệp chướng. ‘Nhìn nhận mình đã làm điều gì sai trái thể hiện lòng thành thật không phải ai cũng làm được. Sai trái càng lớn thì sự thành thật càng bao la và giá trị con người mình càng tăng. Đó là căn bản của đường tu nghĩa là sửa mình, nghĩa là sám hối, chớ không phải tu là tụng kinh, gõ mỏ hay lạy Phật thường xuyên.’ Lời sư nói như xa gần khuyên tôi nên thú tội với dì mình về chuyện đã phạm hơn mười năm trước. Tôi dắc con đi về phía căn nhà mình sống khi tuổi mới lớn, nơi từng rung động con tim vì những cử chỉ săn đón, chăm sóc của ông ta mà không biết mình đương bị dẫn dụ vô cái bẩy nhớp nhúa làm lở dở cuộc đời. Tôi nhớ lúc mình cảm động và đã mềm lòng cho ông ta vuốt tóc khi ông ngâm nga mấy câu thơ ông ăn cắp ở đâu đó tôi tưởng ông đặt ra riêng tặng cho tôi…
Em ngồi chải tóc đêm
sương,
Tình ai se ngọn gió luồn
nhớ qua.
Nhớ cười chúm chím môi
hoa,
Đừng cười to nhé vỡ òa
lòng đêm.
(thơ Trầm Vân)
Từ xa tôi thấy dáng dì mình ốm o, già trước tuổi đương khom lưng quét sân. Tôi ứa nước mắt sống nên kéo con đứng lại núp bên hàng cây thốt nốt trên đường. Con bé mở mắt ngạc nhiên khi thấy tôi khóc. Nó từng thấy mẹ nó thút thít trong đêm nhưng chưa từng thấy tôi khóc trên đường bao giờ. Tôi nghĩ là mình không nên làm khổ dì mình thêm nữa. Sự thú nhận lúc nầy, với sự có mặt của con bé giống ông ta như đúc sẽ là vết dao trí mạng kéo dì ngã xuống, cái chết chắc chắn sẽ tới không lâu sau đó.
Thôi thì tôi xin phụ lời
sư dạy. Tôi phụ luôn lòng thành thật ssám hối của tôi. Tôi sẽ mang mặc cảm tội
lỗi thêm một thời gian nữa, chờ hoàn cảnh thích hợp hơn. Cũng không thể kiếm
ông ta cho con mình biết mặt. Thà con bé sống hồn nhiên tưởng cha mình đã chết
còn hơn cho nó biết có một người cha bẩn thỉu. Tôi ngó trước mặt thấy tấm bảng
lớn:
‘Mẫu quốc cần sự anh
hùng của bạn tòng chinh diệt Phát xít.
Tòng chinh giúp mẫu quốc
là yêu nước Việt Nam.
Giúp mẫu quốc là trả nợ
sự tốt lành của mẫu quốc với nước Việt Nam.’
Tôi lợm giọng với những tuyên truyền đi diệt Phát xít kiểu nầy. Nhớ lại lời sư nói rằng người kia đã lớn tiếng kêu gào những câu tương tợ như vậy tôi càng chán chê. ‘Ông ta có lần vô am hỏi mượn hai cái lọng thờ Phật mẫu để che lọng cho quan Công sứ tới viếng làng, sư đã từ chối khéo nói rằng lọng nhỏ mà rách rưới đem ra chỉ làm trò cười thôi… Từ chối nhiều lần ông ta mới chịu bỏ ý định.’ Lúc nghe sư nói như vậy tôi ngờ ngợ. Bây giờ nghĩ lại chuyện đó chắc chắn là có…’
Tiếng con bé khóc làm
tôi mở mắt. Thân thể tôi như đã bị dần bằng những khúc củi tạ. Dòm hai tay mình
thấy bầm tím và chảy máu nhiều chỗ trên mặt tôi biết mình đã bị bốn năm người
lạ tấn công vô cớ rồi bỏ tôi nằm đây. Chắc là bọn tay chân của ông ta không
muốn cho tôi về nhà gặp dì tôi. Chắc họ cũng đã biết chuyện tôi và con bé ở
trong am sư buổi trưa nay…
Đời không dễ sống, muốn
chuộc lỗi cũng không được. Thôi thì tạm dùng những trầy trật của
đời mình làm phương tiện đưa mình lên khỏi những thấp hèn của cuộc sống, phải
phấn đấu để bước qua những khổ đau nầy nọ. Nghĩ như vậy tôi tôi chập choạng
đứng dậy, gượng nhắc chưn đi về phía lộ Tẻ đón xe đi Châu Đốc. Từ giả Tri Tôn,
Tịnh Biên! Từ giả vùng Tuổi Thơ! Tôi nói với tôi: Ta ơi, chuyện đau lòng
người ta làm cho mình thì nên quăng lại phía sau, sự thất vọng về cuộc đời cũng
nên bỏ xuống để cho tâm mình thanh thản. Như vậy là quy y đó Ta ơi!…
3. Đêm thanh vắng, núi
Két nằm chìm trong bóng đen, mấy vì sao xa xa không đủ chiếu xuống trần, tạo
một cảnh mờ mờ ảo ảo muôn đời của vùng Thất Sơn huyền hoặc như cắt giấy dán lên
bầu trời. Ông Đạo Chuối đương ngủ bỗng nghe như có tiếng ai kêu biệt hiệu của
mình vọng lại từ thăm thẳm xa. Ông cựa mình tỉnh giấc, tiếng kêu còn vang
dội trong đầu.
Ông ngồi dậy gõ trán mấy
cái cho tỉnh, tính ra sân hít thở chút khí trời buổi sáng thì nghe nóng rát
mình như lửa cháy đâu đây. Từ tốn ngồi dậy, ông niệm câu Kinh Cứu Khổ rồi gom
góp tập kinh chép lâu nay với mấy quyển do sư phụ truyền lại bỏ vô đãi, bước ra
cửa, cũng từ tốn như khi mới biết có lửa cháy am. Lửa đã liếm hết phần sau liêu
nơi làm trù phòng, ăn vòng ra gần tới phía trước, đương tạt ngọn vô mấy lu nước
bên hè làm bể lu, nước tràn ra cả vũng sôi bốc hơi hòa cuộn với khói.
Ông Đạo Chuối ngẩn ngơ
nhìn nơi tu hành của mình đương từ từ bị bà Hỏa hóa ra tro bụi. Con chó Tuệ sủa
sủa như thấy có chuyện gì lạ. Ông ngó về phía đó, một cái xe traction màu đen
quen thuộc chạy vút từ phía sau liêu hướng về phía lộ Tẻ thẳng lên Núi Dài, ông
thở ra chán chường:
‘Họ không thích mình
biết chuyện riêng tư tồi tệ. Họ cũng không muốn mình nói sự thiệt rằng dân chán
ngán mẫu quốc tới cần cổ vì sự gian trá độc ác của chúng.’ Ông ngó lên trời
theo dõi muôn ngàn tàn lửa bay bay sáng rực trong đêm.
‘Mọi chuyện của mình rồi
cũng qua. Tiếc là lòng sân si của họ quá nhiều, đè bẹp họ trong cái nghiệp thù
hận vô lí. Tiếc cái am nhỏ nầy đã tạo được nhiều thiện duyên mà nay lại bị
hóa.’
Ông Đạo Chuối ngồi chồm
hổm xuống, xoa xoa dầu con Tuệ, dặn nó như dặn mình: ‘Từ nay con phải dùng tuệ
trí của con nhiều hơn nữa nhe! Am đã mất rồi, mình vân du làm du
tăng! Thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh mất mười tư năm hết năm ngàn bốn mươi
tám ngày biết bao nhiêu cực nhọc, thoát bao cám dỗ sắc tài… sư với con
chịu từng đó mà xá gì!’
4.
Từ sau trận cháy am của ông Đạo Chuối, không ai còn thấy ông đâu nữa. Vùng Thất Sơn kỳ bí với núi Két ghi được thêm một chuyện lạ để người trong vùng thỉnh thoảng kể nhau nghe. Hòn đá tảng bự xộn nám đen hơn một nửa ở trên giửa lừng Núi Két vẫn nằm đó trơ gan theo năm tháng như làm chứng tích cho trận cháy am năm nào; toà nhà lớn của Hương Quản gây ra nghịch cảnh khoai lang nấu lộn khoai mì vẫn hiện diện trên đường đi vô Núi Dài, với thêm nhiều nhà cửa khang trang của con cháu như chứng tỏ sự nghịch lý của đời. Nghịch lý người thấp cổ bị bách hại không được sáng soi trong khi kẻ ác độc xu thời, trải đời mình bằng nịnh hót, không dám đứng thẳng gối trước nghịch quyền thì hưởng lợi vô vàn. Buồn!
Nguyễn Văn Sâm
(Victorville, CA Jan 07,
2016, mười ngày sau lễ Quy y)