Khỉ là anh em họ hàng rất gần với
chúng ta. Ở một thời điểm mù mờ nào đó mà các nhà nhân chủng học vẫn chưa khẳng
định được, chúng ta ở trên cây leo xuống đất, vĩnh viễn giã từ đời sống trên
cây, đi bằng hai chân, và sau đó, vì hai bàn chân không còn được dùng để leo
trèo nữa nên khả năng cầm, nắm cũng dần dần biến đi.
Khỉ và người xa nhau từ đó. Lối sống
mới đưa tới rất nhiều thay đổi cho người trong khi khỉ không có được bao nhiêu
đổi thay, tiến hóa. Khỉ cũng biết sử dụng các dụng cụ tìm thấy được ở chung
quanh như dùng cành cây nhỏ chọc vào hang mối, khều những thứ ở xa và đánh
nhau... Trong khi đó, người thì luôn luôn không ngừng phát triển chế tạo thêm
những dụng cụ khác, không chỉ dùng những thứ có sẵn trong thiên nhiên, mà còn
sáng chế ra ngôn ngữ để thông tin với nhau và những ký hiệu càng ngày càng phức
tạp, được hệ thống hóa thành văn phạm, nhiều cách ăn nói với nhau, để còn thơ
phú, ví von, bóng gió, xỏ xiên, cãi nhau, chửi thề, văng tục... Khỉ không làm
được như thế. Trong phòng thí nghiệm, con đười ươi Koko được dậy để có thể dùng
dấu hiệu bằng tay nói chuyện với một chuyên gia về tâm lý loài vật bằng những
mệnh lệnh giản dị. Nhưng tự loài khỉ thì không sáng chế ra được ngôn ngữ. Nó
chỉ có thể học từ con người nhưng cũng không học được cách diễn tả những ý niệm
trừu tượng như buồn vui, thất vọng, chán đời, ghen tuông, giận hờn, lảm duyên
hay điệu rơi điệu rụng...
Khi xuống đất, khỉ di chuyển bằng
tất cả tứ chi, chỉ khi cần lắm như khi phải dùng tay cầm hay mang vật gì thì
mới đi bằng hai chân nhưng leo trèo thì không động vật nào giỏi bằng khỉ.
Khỉ có mặt ở gần hết mọi nơi trên
thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ, châu Đại Dương, Âu châu, Bắc và Nam Cực. Có tất cả
260 giống khỉ khác nhau. Giống nhỏ nhất chỉ bằng nửa bàn tay. Giống lớn nhất có
thể to và nặng đến 200 kilô.
Có ba giống đại hầu là đười ươi
(gorilla), hắc tinh tinh (chimpanzee) sống tại Phi châu, orang utang sống tại
Borneo (Á châu). Cả ba đều là những giống được bảo vệ rất kỹ, nếu không chúng
có thể bị tuyệt giống vì môi trường sống của chúng đang ngày càng bị thu hẹp
lại lấy chỗ cho người. Hai loài đại hầu ở Phi Châu còn bị săn để lấy thịt
(bushmeat) và chính vì ăn thịt hắc tinh tinh mà siêu vi khuẩn gây bệnh Aids đã
truyền sang người. Tất cả ba giống đại hầu này đều rất giống người và rất thông
minh. Loài chimpanzee giống người nhất. Chúng sống thành từng bầy, có gia đình,
đẳng cấp rõ ràng, biết kéo đi đánh nhau với những bầy khác, bắt tù binh, ăn
thịt nhau, biết ăn một vài thứ lá khi ăn thịt sống hệt như chúng ta ăn rau
thơm, khi đau bụng cũng biết tìm một thứ lá cây nhai. Như vậy chúng cũng biết
dùng dược thảo vậy. Chỉ không đem quảng cáo bán trên truyền hình mà thôi. Chúng
mắc một số bệnh như người như cảm cúm, lao, sưng phổi... Chúng cũng có những
liên hệ đồng tính và có ý niệm rõ về cái chết. Chúng có trí nhớ và có thể học
và hiểu, diễn tả được một số tiếng người bằng cách ra hiệu (sign language). Có
những con bắt chước người hút thuốc lá và nghiện nặng như ở một vài sở thú.
Thiếu thuốc chúng cũng bị vật và thấy người thì chạy tới, ra hiệu xin thuốc
hút. Trong tiếng Việt, chúng được gọi chung là khỉ đột hay khỉ độc.
Những nghiên cứu về hai giống đại
hầu đáng kể nhất là của Dian Fossey và Jane Goodall. Dian Fossey người Mỹ
chuyên nghiên cứu về đười ươi đã bị bọn săn đười ươi bất hợp pháp giết năm
1985. Jane Goodall, người Anh, chuyên nghiên cứu về hắc tinh tinh trong suốt
nửa thế kỷ.
Người ta thường phân biệt những con
có đuôi là monkeys; những con không có đuôi là apes. Tất cả các giống khỉ đều
giỏi bắt chước, thấy sao là bắt chước làm theo liền: "monkey see, monkey
do" là câu tiếng Anh bồi để nói về cái tính hay bắt chước (mù quáng) đó.
Động từ "to ape" cũng có nghĩa là bắt chước. Do khả năng bắt chước
giỏi và tính thông minh, khỉ được dậy làm xiếc và giúp người trong nhiều việc.
Chúng còn có thể được huấn luyện để giúp đỡ cho người tàn tật không dùng được
tay chân làm các công việc như đóng cửa, mở cửa, lấy thuốc, lấy nước, xúc thức
ăn... cho người. Đó là khỉ capuchin, một giống khỉ ở Nam Mỹ, tuy nhỏ chỉ như
một con mèo nhưng được coi là giống thông minh nhất, có thể hiểu được nhiều
mệnh lệnh của người.
Khỉ đã được cho bay lên thượng tầng
khí quyển trước cả người. Chuyến bay của một hỏa tiễn V2 năm 1949 đã đưa khỉ
Abert II lên không gian từ một căn cứ không quân của quân đội Mỹ. Khỉ cũng được
dùng rất nhiều trong phòng thí nghiệm vì chúng rất giống người trong các phản
ứng với các loại thuốc. Các tổ chức bảo vệ loài vật đã phản đối dữ dội nhưng
không thành công mấy.
Khỉ là giống vật gần với người nhất.
Vị trí của các bộ phận cơ thể đều được sắp xếp ở những vị trí tương tự như ở
người, ngoại trừ một số có đuôi trong khi người thì không. Tại sao ông trời
sinh ra khỉ giống người thì không ai biết được. Bàn tay của khỉ rất giống bàn
tay người có cả chỉ tay, vân ngón tay. Khỉ có thể phối hợp ngón tay cái và 4
ngón kia nên chúng khéo tay hệt như người, vượt xa khỏi các sinh vật khác. Móng
tay khỉ rất giống móng tay người và mặc dầu không phải đi làm nail ở tiệm, lúc
nào móng tay khỉ cũng như vừa được cắt và mài giũa xong.
Khỉ cũng bị người săn bắt lấy thịt
để ăn như ở Á châu, Phi châu và Nam Mỹ. Dưới triều nhà Thanh, các nhà ngoại
giao Tây phương đã ít nhất một lần được mời ăn món óc khỉ. Những con khỉ còn
sống la thét bị trói chặt, đầu được đẩy qua những chiếc lỗ trên mặt bàn ăn.
Người ta dùng những chiếc búa làm bằng vàng đập vỡ đầu những con khỉ đang la
thét đó rồi dùng muỗng múc óc những con khỉ đó lên để ăn. Đúng là cách ăn uống
của mấy anh Tầu: con gì ngọ nguậy là nấu lên đớp liền.
Trong văn chương ít thấy các nhà thơ
nhắc tới khỉ. Có lẽ chỉ đôi ba lần như trong một bài Phan Văn Trị họa lại bài
xướng của Tôn Thọ Tường là có nhắc tới khỉ: "Chớ mượn hơi hùm rung nhát
khỉ / Lòng ta sắt đá há lung lay." Nguyễn Du không nhắc tới khỉ một
lần nào trong suốt mấy ngàn câu Kiều. Ông Tú Xương chỉ bóng gió nói về khỉ: "...
bồng bế nhau lên chúng ở non." Nguyễn Nhược Pháp chỉ có môt câu có
hình bóng những con khỉ: "Sau núi Oản, Gà, Xôi / Bao nhiêu là khỉ
ngồi..."
Trong tiểu thuyết của Ngô Thừa Ân,
con khỉ Tôn Ngộ Không được nhân cách hóa và là nhân vật chính trong Tây Du Ký.
Có một số khỉ đã bị các nhà sinh vật
học bỏ quên nên hiện chưa có được những nghiên cứu nghiêm túc và chi tiết về
chúng.
Thí dụ khỉ khô là giống khỉ không
biết xuống nước để tắm, khác hẳn một giống khỉ ở Nhật trong mùa đông cũng xuống
các suối nước nóng để tắm. Giống khỉ này ít gặp nên hễ nhắc tới chúng thì bao
giờ cũng là câu "Không có con khỉ khô nào cả" hay "Không
ra cái khỉ khô gì hết".
Khỉ mốc là giống cũng khó kiếm.
Thỉnh thoảng chúng bị ướt, không biết lau cho khô nên hay bị mốc.
Khỉ Tầu là giống khỉ quê quán tại
Hoa Lục, cùng quê hương với người vượn Bắc Kinh theo một số nhà nhân chủng học.
Giống khỉ Tầu này rất khốn nạn và mất dậy. Chúng có thói quen ở bẩn, khạc nhổ
phóng uế khắp nơi, chỗ nào lấn được là chúng lấn. Cả thế giới đều ghê tởm
chúng.
Khỉ dòm nhà thường được người nuôi
trong nhà như một giống thú cưng nhưng nhiều khi lại gây ra rắc rối cho gia chủ
hệt như nuôi ong tay áo để lấy sữa ong chúa, sữa chằng thấy đâu lại bị ong
chích cho sưng vú lên thì có.
Nỡm cũng là một giống khỉ sống gần
với người. Tườu là một loài khỉ mà ở Bắc Việt Nam gọi là tiều nhưng lại viết là
tườu. Bà Huyện Thanh Quan có lần trông thấy tận mắt mấy con tiều này xuống bến
sông đón thuyền đi chợ: "Lang thang dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên
sông chợ mấy nhà", Tuy thế, gọi ai là khỉ tườu hay đồ con tườu thì đó
là một lối lăng mạ khá nặng.
Bú dù là một giống khỉ mà người Pháp
đem vào Việt Nam. Giống bú dù được lồng vào một câu để chào nhau hồi người Pháp
còn ở Việt Nam: "Mẹc xà lù bú dù con khỉ!". Mẹc là do danh từ merde
của tiếng Pháp có nghĩa là cứt. Xà lù là từ danh từ salaud nghĩa là đồ
khốn nạn.
Khẹc là một giống khỉ khác. Đây có
thể lá một tiếng tượng thanh bắt chước tiếng kêu của nó. Khi nói đồ con khẹc
thì cũng hệt như gọi người đó là đồ khỉ vậy.
Khỉ gió rất dễ ghét. Khỉ gió đùng
lăn ngã ngửa là cảnh nham nhở và sàm sỡ của loài khỉ này. Hiện chưa biết nguyên
do vì sao chúng lại có cái tên kỳ lạ đó. Có thể là do hai chữ phong hầu (?) ra
chăng.
Giống đười ươi có một thời sống tại
Việt Nam và được cho cắp sách đến trường ăn học tử tế nhưng sau sinh tật lười
biếng, cúp cua, trốn học bỏ váo rừng rồi không trở ra nữa. Ông Cao Bá Quát có
lúc đã dậy học cho mấy con: "Nhà trống ba gian: một thầy, một cô, một
chó cái / Học trò dăm đứa: nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi". Hồi ấy
mấy em nữ sinh đười ươi đi học cũng diện lắm khiến một nhà thơ vô cùng đáng yêu
của Việt Nam, ông Bùi Giáng cũng phải ngậm ngùi trong nhiều bài lục bát cũa
ông: "Ta về giũ áo đười ươi/ Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau"
rồi lại "Em về giũ áo mù sa/ Tiền trình vạn lý anh là đười ươi".
Sự giao tiếp giữa người và đười ươi là có như trong một truyền thuyết nói là
ông Mạc Đĩnh Chi, một danh sĩ thời Hậu Lê tương truyền là có máu đười ươi trong
người vì thân mẫu của ông vào rừng bị đười ươi bắt và về nhà thì mang thai rồi
sinh ra ông diện mạo rất xấu xa nhưng cực kỳ thông minh được cả Trung Hoa và
Việt Nam coi là lưỡng quốc trạng nguyên. Theo báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà
thì ở Cà Mâu cũng có một vụ tương tự. Xét về mặt khoa học thì những chuyện
người và khỉ đều không thể xẩy ra. Con đười ươi King Kong chỉ là tưởng tượng để
làm thành phim kiếm tiền. Phim được thực hiện hai lần đều để kiếm tiền.
Khỉ già thường sống thành từng cặp
sau khi bọn khỉ con học hành xong, có nghề nghiệp bỏ nhà ra đi chỉ còn hai con
khỉ già sống với nhau ít được các khỉ con ngó ngàng tới.
Khỉ cũng biết mặc quần áo chứ không
phải lúc nào cũng một bộ lông quanh năm suốt tháng. Vì thế, áo maillot
còn có tên là áo khỉ. Túi khỉ là cái túi may ở trước bụng của áo lót dùng để
giữ an toàn cho cái bóp tầm phơi.
Tại một ngôi đền Thần đạo ở Nikko,
Nhật có tượng của ba con khỉ tên là Mizaru, Mikazaru và Mazaru. Con Mizaru lấy
tay bưng mắt, Mikazaru bịt tai và Mazaru che miệng. Tượng của ba con khỉ này
được tạc từ thế kỷ thứ 17 và được coi là tóm gọn được phần nào nguyên tắc sống
của Khổng Tử: không nhìn những chuyện xấu, không nghe những chuyện xấu và không
nói ra những điều xấu. Một con thứ tư được thêm vào một cách không chính thức,
Con này dùng tay ôm lấy bộ phận chiến lược của nó, ý nói không làm những chuyện
xấu. Nhưng con thứ tư này không được tạc thêm vào những bức tượng ở đền Thần
đạo mà chỉ thấy bán ở những cửa tiệm bán đồ kỷ niệm. Cũng có thể điều khuyên
của con này không được bao nhiêu người nghe và làm theo chăng.
Khỉ được thờ trong Ấn độ giáo từ 5
thế kỷ trước Công nguyên. Khỉ tượng trưng cho thần Shiva, cho sự thông minh,
trung thành, dũng cảm. Tại những ngôi đền thờ khỉ, bọn khỉ tự do đi lại như
chốn không người, mặc tình cướp phá chợ búa, cửa hàng của dân chúng, cảnh sát
cố gắng can thiệp cũng không ăn thua gì.
Nhưng qua tới Việt Nam, khỉ không có
được bao nhiêu mỹ cảm. Những người ra đời trong năm khỉ thì than thở đứng ngồi:
Người ta tuổi Ngọ tuổi Mùi
Riêng tôi ngậm ngùi vì nỗi tuổi Thân
Tuổi Thân con khỉ ăn bần
Có một điều kỳ lạ là người Việt khi
chửi nhau thì lại chỉ lôi cha của khỉ ra mà không bao giờ lôi mẹ của khỉ ra cả.
Chúng ta nói "bố khỉ nhà nó" chứ có nói "mẹ khỉ"
bao giờ đâu? Trong một cách nói về một điều không mấy xứng ý, chúng ta cũng đem
khỉ ra: "Rõ khỉ!"
Nhưng khi gọi ai là "Anh khỉ
này!" hay "Đồ nỡm!" hay "Đồ khỉ chửa
nào!" thì chưa chắc người đó đã bị ghét mà có thể là rất đáng yêu là
khác.
Trong tiếng Mỹ, monkey hay ape là
những tiếng cực kỳ độc địa để gọi người da đen. Chính tổng thống Obama cũng đã
bị một tờ báo đăng một bức hí họa vẽ ông là một con khỉ. Ông Bush con cũng bị
dùng photoshop để biến ông thành một con hắc tinh tinh. Đùa ông Bush thì không
sao nhưng tờ báo diễu ông Obama thì phải xin lỗi lia lịa.
Ngày Tết người Việt kiêng không nhắc
đến khỉ vì sợ gặp phải những chuyện không may thế nên chuyện khỉ không nên đem
ra nói quá rông dài.
Bởi thế xin chấm dứt ở đây.
Ký Giả Hạng Bét