Buổi chiều một ngày cuối năm trong
nghĩa trang, hai người lính một già, một trẻ, ngồi bên cạnh một nấm mộ hoang
phế, đã mất mộ chí. Họ ngồi như đang chờ đợi một ai đó tới. Gió thỉnh thoảng
thổi qua, những ngọn cỏ vàng úa khẽ lao xao, mái tóc bạc của người lính già vài
sợi quá dài cũng bay ngơ ngác. Ông cất tiếng chuyện trò với anh lính trẻ:
Này cậu, sao mặt mũi buồn so vậy.
Tết nhất tới nơi rồi, không nhiều thì ít thế nào chúng mình cũng được ngửi mùi
hương mùi hoa.
Biết rồi
Biết sao còn buồn
Bác có lòng tốt bác kéo tôi vào,
nhưng tôi thấy những đồng đội của bác họ không có thiện cảm với tôi, vẫn nhìn
tôi bằng cặp mắt ghẻ lạnh, nếu không nói là ghét bỏ.
Ừ, cậu cũng phải thông cảm cho họ
chứ. Các cậu thuộc bên thắng trận, kéo vào dẫm nát cả thành phố của chúng tôi.
Người tù đầy rừng sâu nước độc, kẻ đi vùng kinh tế. Rồi kẻ chết trong thành
phố, kẻ chết ngoài biển khơi. Người của cậu đập phá, tước đoạt không bỏ sót một
thứ gì, ngay cả bức tượng vô tri bằng đá ở nghĩa trang này cũng bị đập tan. Làm
sao mà họ có cảm tình được với cậu.
Tôi biết chứ, tôi đâu có muốn vào
đây. Cái hôm xác lính Cộng Hòa của các bác được hốt vào một đống, đem tới đây
lấp vội lấp vàng, tôi tình cờ lạc đạn chết cạnh đó và xác bị bỏ rơi, nên cũng
được hốt luôn một thể và nằm chung một huyệt. Tôi có được tự chọn đâu.
Nhưng bây giờ mọi người ở đây ai
cũng biết lý lịch của cậu rồi, làm sao trách chúng tôi được.
Tôi biết, nhưng nếu ai cũng từ tâm
như bác thì tôi đâu có cô đơn, chui rúc bao nhiêu năm nay một xó, chẳng dám làm
bạn với ai.
Tôi sinh ra ở miền Bắc,
lớn lên bị gọi vào bộ đội
tôi đi dọc Trường Sơn năm mười sáu
tuổi
tôi chưa hề có người yêu nên chết
vẫn cô đơn
tôi có ba người anh đều chết trận
ở tuổi mười tám, hai mươi
cứ cách đôi năm mẹ tôi lại dán tờ Tổ
Quốc Ghi Công trên vách
Tháng Tư năm 1975
mẹ ra đầu ngõ chờ tin thằng con út
về trong chiến thắng
tai mẹ điếc rồi không nghe thấy
tiếng hò reo
mắt mẹ lòa rồi không thấy màu cờ đỏ
mẹ đi ra
rồi mẹ đi vào
tay mẹ vịn hoài lên cánh cửa
không có ai gõ cửa
khôngcó ai báo tin
dù tin con mất tích
dù tin con hy sinh
Tờ “Tổ Quốc Ghi Công” thứ tư
cho đến khi nhắm mắt
mẹ chưa hề nhận
người ta mải chia nhau chiến thắng
ngoài người mẹ
không ai nhớ đến những người lính
trẻ chết mất thây
không ai đi tìm tôi
không ai biết thân xác tôi lại nằm ở
nơi đây
thân xác tôi
một xác lính mồ côi
hãy thương tôi đi
Ở phía nào tôi cũng chỉ là người
lính
hãy thương tôi và cho tôi nằm cạnh
hãy ôm tôi như các anh đã ôm chính
nước Việt mình.
Thôi, tôi hiểu rồi.
Cậu biết đấy, thấy cậu còn trẻ quá
tôi cũng thương, mới qua tuổi mười tám, phải không? Các bạn tôi tuy nhìn cậu
không mấy cảm tình nhưng cũng không ai nỡ đuổi cậu ra khỏi đây, vẫn cho cậu đi
theo khi có hoa có hương. Khi chúng tôi được cúng vái chúng tôi cũng vẫn nhớ
chia cho cậu chút đỉnh, đúng không? Cậu nhìn chung quanh nghĩa trang này đi.
Mười sáu ngàn ngôi mộ
theo thời gian bị bỏ phế, không
người viếng thăm.
hoang tàn đổ nát
bốn mươi năm dâu bể, kẻ khócngười
cười
những ngôi mộ trong nghĩa trang này
cũng thăng trầm theo vận nước.
ai cũng phải lo cho người sống trước
mộ bia như bìa sách rách tan
những hàng chữ mất tên mất ngày mất
tháng
có những ngôi mộ lún sâu rồi mất hẳn
cỏ dại mọc như chăn đắp
“trăm năm nào có gì đâu
chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì”
như én không để lại vết cánh trên
bầu trời
vợ con thất lạc
trôi giạt về chốn chẳng định nơi
mong chi về cố quận
Bác vẫn sướng hơn tôi, trách làm gì.
Dẫu sao các bác bây giờ cũng thỉnh thoảng có người ghé thăm vào những ngày cuối
năm, cũng có hương, có hoa, có xôi, có dăm ba điếu thuốc. Có những bác còn may
mắn, được vợ con, cháu nội, cháu ngoại tìm về. Kẻ lo tu chỉnh mộ phần, kẻ lo
cải táng mang đi. Tôi đã mồ côi còn lạc chỗ. Sống đã khổ, chết tủi thân chẳng
ai an ủi hồn vô xứ.
Mà này bác, nếu được trở lại làm
người bác còn muốn làm người Việt Nam nữa không? Sao tôi sợ thế, sợ lại phải đi
vào chiến tranh từ năm mười sáu, sợ có bao nhiêu anh em cùng theo nhau tử trận,
sợ mẹ mình lại suốt đời sống với mấy mảnh giấy “Tổ Quốc Ghi Công” và sợ nhất
phải làm một cái hồn lính mồ côi.
Tôi à, tôi vẫn muốn làm người Việt
Nam, vẫn yêu mảnh đất này, khi chết vẫn muốn được antáng trong nghĩa trang quân
đội của chúng tôi. Tôi biết cậu tủi thân vì lạc chỗ. Nhưng phần đất nào cũng là
đất Việt, dù Bắc hay Nam. Khi cậu lạc vào nghĩa trang này, dù những người của
Việt Nam Cộng Hòa chẳng thích, chẳng tiếp đón nồng hậu. Nhưng có ai xúm lại
đánh đập cậu đâu, có ai ném đá vào cậu khi cậu khi cậu đi qua chỗ họ không? Cậu
chết trẻ chắc hồn thiêng lắm. Cậu đã biết những người “Lính ngụy” chúng tôi
ngoài kia phải chịu những hình phạt gì. Nhưng thôi, bốn mươi năm rồi, lúc này
không phải là lúc còn kể tội nhau.
Kìa, họ đang tới rủ mình đi ăn Tất
Niên. Mấy hôm nay hương hoa, bánh trái nhiều lắm. Mấy cháu nội, cháu ngoại của
chúng tôi ở nước ngoài về còn mang theo cả thuốc lá.
Họ đến khá đông, khoác vai nhau vừa
đi vừa hát, anh lính Bắc Việt cũng được nhập bọn. Không ai nhìn anh với ánh mắt
lạnh lùng nữa. Họ cùng hát
những bài ca của mọi binh chủng Việt
Nam Cộng Hòa, anh lính lạc chỗ chỉ biết im lặng lắng tai nghe.
Một bài hát mới được cất lên,
với những lời ca tụng quê hương gấm vóc, ca tụng tiền nhân, ca tụng tình thương
đồng loại, ca tụng hòa bình, tự do, công bình, bác ái…. Một bài hát không có
sinh Bắc tử Nam, không có hận thù đằng đằng. Họ vừa hát với môi cười nhưng mắt
đẫm lệ.
Anh lính lạc chỗ thấy mình không còn
xa lạ nữa, không còn là anh lính Bắc Việt mồ côi trong nghĩa trang quân đội
miền Nam. Anh ý thức được mình chỉ là một người lính trong muôn vàn người lính
của cả hai miền cùng chết cho cuộc chiến Huynh Đệ Tương Tàn.
Buổi chiều xuống thật thấp, một năm
cũ sắp hết. Anh lính lạc chỗ giơ cánh tay lên gạt ngang những giọt lệ đang lã
chã rơi, nhưng trên môi anh nở khẽ một nụ cười.
Tôi đặt niềm tin từ trái tim nhỏ bé
của tôi
vào tình thương yêu của loài người
tình thương yêu đó có thật
thật như mặt trăng
thật như mặt trời
thật như những bông lúa trên cánh
đồng
thật như chạm tay vào núi
thật như chạm tay vào biển
tình thương biến chó sói thành cừu
tình thương nở hoa trên những bụi
gai
tình thương chữa lành những xỉ nhục
vô hình
tình thương âm thầm như những hạt
cải
đang vươn mầm chờ một bình minh.
Trần Mộng Tú
Cuối năm 2015