Một người đàn ông gày
gò, mái tóc tóc bạc bù xù, nụ cười xám xịt khói thuốc, ôm chầm tôi, vỗ mạnh mấy
cái vào lưng, rồi cất giọng khao khao:
- Lai đây, Đặng Phúc
Lai đây. Được thông báo về mình rồi chứ? Mình đợi cậu, tin chắc thể nào cậu
cũng sẽ tới. – anh nhét vào tay tôi một tập giấy - Đây là tài liệu mình mang
sang cho cậu.
Đó là Đặng Phúc Lai,
người được các bạn dân chủ ở trong nước báo trước cho tôi biết tôi sẽ gặp anh ở
Pháp. Lai sang đây để chữa bệnh, bệnh gì anh em không nói, nhưng chắc là nan y.
Tôi ở Nuremberg, cách Paris một đêm nằm tàu, anh sang hôm nào tôi cũng không
hay. Chẳng ai báo cho tôi cả. Tôi vừa từ Nuremberg đi Lyon để dự cuộc gặp mặt
các bạn văn quốc tế sống lưu vong ở châu Âu. Tan cuộc, tôi ra thẳng ga đi
Paris. Ở Paris Mạng lưới Dân chủ tổ chức buổi tưởng niệm Trần Độ. Lúc đó là
tháng 11, trời đã hơi lạnh. Anh Bùi Tín đứng bên săn sóc nhắc Lai: đừng cố gắng
nói to mà mệt, nói thế nghe được rồi.
- Trông cậu không
khác trong ảnh bao nhiêu. Hơi già hơn một chút. Cái ảnh là hay nịnh lắm – Lai
nghiêng ngó ngắm tôi, nói qua hơi thở hổn hển – Anh em hỏi thăm cậu. Nhớ lắm.
Anh gọi lên một số
tên. Tôi ôm lấy anh, thấy trong vòng tay mình một thân xác nhẹ bỗng. Thì ra Lai
là thế này đây. Lời giới thiệu qua điện thoại viễn liên, vừa phải ngắn gọn, vừa
phải bí mật, nên rất sơ sài, chỉ đủ để cho sự tin tưởng lẫn nhau thì Lai là
"người mình đấy." Một cây viết sắc sảo với những tiểu luận chẳng bao
giờ được in. Một cựu tù nhân có thâm niên hơn một giáp trong các trại tập
trung. Một tiểu sử bình thường. Những cây viết không được in ở Việt Nam không
phải là ít. Đám cựu tù thì đông lắm, vô số kể. Cho nên cũng chẳng thể coi là
một người đặc biệt. Nhưng trong cái thời "Giấy rách mất lề/ Tượng Phật
khóc, Đức Tin lưu lạc/ Thiện Ác nhập nhằng/ Công lý nổi lênh phênh…"
(thơ Nguyễn Duy) được thêm một người còn bàn chuyện thời thế nước non, chuyện
độc tài dân chủ, chuyện đấu tranh cho một xã hội xứng đáng với con người là
quý. Không phải quý vừa, mà quý lắm.
Cho tới khi tôi được
đọc một bài viết của Đặng Phúc Lai về Phật học, về Thiền và Vô Niệm. Bài viết
của anh mang lại cho tôi nhiều hiểu biết thú vị. Nó không chỉ bổ sung cho kiến
thức của tôi vào đúng chỗ tôi thiếu, ở một mặt nào đó nó còn có tính chất khai
tâm. Lai có cách viết hơi lạ, với những chữ viết hoa bất tử, những dấu chấm
lửng và những đoạn xuống dòng không giống ai, nhưng trong những bài viết của
anh những khái niệm siêu hình mờ mịt trở nên sáng rõ trên nền hơi văn hào sảng,
đây đó thỉnh thoảng pha chút hài hước.
Đến lượt Lai phát
biểu. Cử toạ trong những cuộc họp như thế này bao giờ cũng gồm những người rất
khác nhau. Phần đông là những người có chân trong các hội đoàn người Việt hải ngoại,
họ đến để nghe các diễn giả nói về những vấn đề thời sự nóng hổi, để ủng hộ
hoặc đả đảo một cái gì đó. Nhưng kìa, lạ chưa, diễn giả vừa từ trong nước ra
kia dường như lại muốn nói về cái khác, không phải chuyện chính trị, là chuyện
người ta cần nghe. Lai nói say sưa, không chú ý tới cử toạ ngỡ ngàng. Anh độc
thoại. Ai nghe được anh thì nghe. Ai không thích nghe thì thôi. Anh nói bằng
những hơi gió chạy qua những dây thanh đới bị hỏng, đã thế lại nhiều từ trừu
tượng, ít nhất thì cũng cần phải sắp xếp lại những định nghĩa cho chúng. Nhưng
cả hội trường im phăng phắc lắng nghe anh. Tôi không nghĩ rằng bài nói của anh
được nhiều người có mặt hiểu hết. Nhưng điều quan trọng nhất mà anh muốn nói đã
đến được với họ. Anh nói về một Trần Độ sản phẩm của một thời tao loạn hối hả
với những lựa chọn ngẫu nhiên, không kịp cho những suy nghĩ trầm ngâm, một con
người bình dị, như tôi như anh, như mọi người, với tất cả những ràng buộc thế
tục phàm là con người đều phải có. Trong con người có lúc đã lên tới đỉnh cao quyền
lực của chế độ độc tài có một nét vượt trội - ấy là sự trung thành với tình yêu
tự do, nhờ nó mà con người cơ chế chính thống trong ông đã vượt qua được những
giằng xé của ý thức được, hoặc bị, nhồi nhét vào đầu trong nhiều năm, vượt qua
được bản năng, hoặc thêm cả ý thức tự bảo tồn vào đấy nữa, để sau hết, vượt qua
cái tồi cái xấu của chính mình mà trở thành người đấu tranh cho tự do. Qua màn
sương của những từ triết lý, người ta hiểu điều anh muốn nói: con người muốn
xứng đáng là con người cần phải có trước hết là cái Tâm trong sáng. Có cái Tâm
ấy rồi, con người sẽ hành động ung dung tự tại, không phải ngó trước ngó sau,
không phải làm để chiều lòng một ai.
Sau đó, chúng tôi còn
gặp nhau nhiều lần nữa ở nhà anh Bùi Tín, và hai lần trong căn phòng hẹp của
tôi ở Paris, nơi chúng tôi phải né tránh nhau như những người lịch sự bậc nhất
để kiếm lấy một chỗ ngồi và từ đó cứ phải ngồi yên, không được đi lại, cho tới
khi ra về. Những cuộc gặp gỡ này, phải kể thêm một đêm khề khà tâm sự nữa, làm
cho tôi hiểu Lai thêm. Càng hiểu anh tôi càng quý anh. Để rồi sau này tiếc hùi
hụi chuyện trong cõi nhân sinh hữu hạn gặp được nhau quá ít trong khi có thể
gặp nhau nhiều hơn.
Lai bị ung thư vòm
họng, Bùi Tín thông báo bằng giọng thì thào. Anh sang được Pháp nhờ chính quyền
Hà Nội coi thường anh, và nhờ nước Pháp không hẹp hòi với anh. Chị ruột Lai,
một người yêu em bằng tấm lòng người mẹ, đã lo cho anh sang để chữa bệnh. Nhưng
ở Pháp không có phép lạ. Các bác sĩ chuyên ngành nổi tiếng tiên đoán Lai không
còn sống lâu. Mọi người biết chuyện đều giấu Lai sự thật. Biết là thế rồi, với
tất cả sự kính trọng đối với y học Pháp và châu Âu, tôi vẫn cứ cứ ngỡ ngàng
nhìn Lai. Trong thâm tâm, tôi không tin, hoàn toàn không tin. Trên gương mặt
rạng rỡ với đôi mắt tinh anh của Lai không có bóng dáng của thần chết. Lai và
tôi là bạn đồng tuế. Năm nay anh và tôi cùng bước vào "đầu 7", theo
cách nói mới ở trong nước. Chưa đến tuổi này ở làng tôi những năm xa xưa các cụ
đã chuẩn bị cho mình một cỗ hậu sự. Tôi chưa nghĩ tới cái chết. Lai cũng vậy.
Những người khăng khăng không chịu "chuyển hộ khẩu" vào nghĩa địa tù
trong những năm dài ở các trại cải tạo đều thế cả - họ không còn nghĩ tới cái
chết, hay nói cách khác, họ từ cõi chết trở về và họ sẵn sàng gặp cái chết với
tâm trạng bình thản. Trong mấy lần gặp gỡ hiếm hoi chúng tôi háo hức nói với
nhau về đủ loại đề tài, từ tình hình đất nước cho tới những khái niệm về dân
chủ với tư cách hệ thống quản trị xã hội, những hình thái độc tài mà dân tộc có
thể sẽ gặp, không trừ cả hình thái nguỵ dân chủ, thậm chí cả lĩnh vực ngoại cảm
vốn bị coi là mê tín dị đoan. Lai thích thú nói về Mẫn và Tuệ với tư cách hai
thành tố của "Nhân" như một điều không cần chứng minh, nhưng lại là
điều nhưng chuyên gia thuần lý không có khả năng hiểu. Anh làm rõ thêm ý nghĩa
tưởng chừng không cần làm rõ thêm nữa của Nhân trị và Pháp trị. Anh bốc lên khi
nói về chữ "Tâm" sẽ cứu rỗi nhân loại, về cõi tâm linh bị bỏ quên,
chính nó đã gây ra nhiều thảm hoạ cho loài người. Anh có thể nói hàng giờ về đề
tài đó, cho tới khi từ cuống họng anh chỉ còn phát ra hơi gió thay cho tiếng
nói. Tôi can anh đừng nói nữa thì anh gạt phắt, còn nói hăng hơn nữa, để chứng
tỏ anh vẫn còn nói được.
Lai không kể vì sao
anh bị tù. Tôi cũng không hỏi. Ở miền Bắc Việt Nam trong những thập niên cực thịnh
của chính quyền xã hội chủ nghĩa chẳng ai buồn hỏi ai câu hỏi vô duyên đó, trừ
những kẻ ngớ ngẩn. Người ta đi tù bởi đủ mọi lý do có thật và không có thật mà
nhân loại bình thường không bao giờ hiểu được. Đó là thời gian của cái gọi là
lãng mạn cách mạng, khi những lãnh tụ anh minh thành tâm (hay không thành tâm
nhỉ?) tin vào nền giáo dục tốt đẹp không gì sánh bằng của những trại giam do họ
xây dựng. Đi qua những trại giam ấy những công dân hư hỏng, cũng lại theo cách
đánh giá của họ, sẽ trở thành những công dân mẫu mực. Những công dân mẫu mực
này, tôi và Lai đều được được chứng kiến, nếu không nằm lại ở các nghĩa địa tù
thì cũng trở về như những kẻ bại liệt hoặc mất trí. Với Đặng Phúc Lai da bọc
xương, các lãnh tụ béo tốt và phơi phới niềm tin đã thua. Trại giam xã hội chủ
nghĩa không bẻ gãy, cũng không hoán cải được Lai. Cái duy nhất mà nó làm được
là để lại trong anh lối văng tục trong cả những câu chuyện hết sức tử tế của
anh với những người tử tế mà anh gặp. Cái đó làm nhiều người ngỡ ngàng. Tôi trách
anh, anh bảo: "Mình ở cái xã hội xuống cấp thì mình phải xuống cấp theo
với nó, không thì nó tống ra ngoài." Cái gì vậy? Trở lại với Khổng Tử:
"Thiên hạ đục ta trong làm sao được" chăng? Cái ngôn ngữ vỉa hè lên
ngôi tự bao giờ để lây nhiễm vào cả những người như anh? Tôi sai chăng khi khe
khắt với nó? Điều tôi thấy được, buồn rầu mà thấy được, khi quan sát một cuộc
đàm thoại của Lai với trí thức trẻ từ trong nước ra, là, lạ thay, dùng cái ngôn
ngữ quá quắt ấy anh truyền đạt được những tư tưởng của anh cho họ nhiều lần tốt
hơn là với cái ngôn ngữ lịch sự nhưng cổ hủ của tôi.
Ai đó sẽ hỏi tôi:
"Anh này phải chăng là một tác gia lớn bị bịt đi nên không ai biết, để anh
phải viết về anh ta những dòng trân trọng đến thế?"
Đặng Phúc Lai có thể
là một tác gia lớn. Hoặc chưa kịp trở thành lớn. Mà cũng có thể không. Cần phải
đọc Lai để biết về anh. Mà anh thì chẳng có gì nhiều cho ta đọc. Không một cuốn
sách được in, dù mỏng. Những độc giả bình thường chẳng biết gì về anh. Cho tới
khi họ may mắn (hoặc không may mắn) được gặp anh. Cho tới khi được đọc một vài
đoản văn của anh luận bàn về những lĩnh vực bị coi thường, bị bỏ quên, như con
đường từ Giác, tới Tri, tới Thức, rồi tới Trí (bài "Cùng người bạn Ngẫu
nhiên…, vài ba ý Ngẫu nhiên (?)…, sau một lần Ngẫu nhiên").
Trong "Nhân Trần Độ," một bài khác, anh viết về ý nghĩa nhân
sinh hơn là về một con người cụ thể. Lai còn viết những đoản văn về Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, về sự tương đồng giữa bất khả tri luận của Vương Dương Minh như
một dạng của cái "Tri" mà ta hiểu, hoặc bàn về tính Lưỡng cực và
Bất nhất của Osho… Nếu nói tới cái đã được in ra thì chỉ vẻn vẹn có hai bài
trên tờ Thế kỷ 21 và Việt Tide ở California. Các bạn trong nước gần anh hơn cho
tôi biết Lai viết nhiều hơn là chúng ta biết, những bài viết của anh chẳng được
mấy người biết đến, trừ những người mà anh trao tận tay, bằng những bản
photocopy. Hi vọng rồi sẽ có ai đó sưu tầm những bài viết rải rác đó lại, để
chúng ta có dịp suy ngẫm cùng anh, một con người "trải mùi đời gót rỗ kỳ
khu," một khối óc chẳng bao giờ ngưng suy nghĩ về ý nghĩa của tồn tại.
Những ai đã đọc anh, đọc những lời bộc bạch của anh, đều yêu quý anh. Một tác
gia nọ, bị Lai phê phán khá nặng nề trong một bài viết đã giấu biến bài đó đi
khi được anh gửi cho đọc trước, không cho ai được ngó tới nó. Lai giận và khinh
anh chàng này lắm. Buồn cười là chính anh chàng lại khoe mình là bạn thân nhất
của Lai khi Lai qua đời. Nghĩa là Lai được cả những người không ưa anh, thậm
chí ghét anh, lấy làm hãnh diện được xưng là bạn anh.
Tôi không rõ vào
những lúc ấy Lai có biết anh không còn sống lâu nữa hay không? Thời gian sống
của anh, theo những người được biết lời tiên đoán của các bác sĩ, không phải
tính bằng năm mà tính bằng tháng, rất có thể bằng ngày. Thông minh như anh thì
không thể không biết, dù mọi người cố tình giấu anh. Có điều Lai lúc nào cũng
lạc quan. Ở anh, lạc quan không mang hình hài cặp kính màu hồng, mà chứa đựng
một niềm tin vững chắc ở con người, ở cuộc đời, chứ không phải vì một cái gì đó
của riêng anh. Anh phê phán không nể nang những quan điểm mà anh cho là sai,
thậm chí cả với bạn bè, nhưng bao giờ cũng vậy, qua những lời đôi khi lỗ mãng
của anh ai cũng thấy trong anh tình yêu bạn nồng hậu. Anh tham gia vào những
việc xây dựng cái mà anh cho là tốt không rụt rè, với tất cả niềm tin rằng cái
tốt nhất định thắng. Trở về Paris sau chuyến đi Hoa Kỳ, tôi được xem biên bản
một cuộc họp bàn về một tờ báo sẽ ra đời, đọc những ý kiến của anh trong cuộc
họp đó tôi không thể nào tin rằng một người biết mình sắp rời bỏ thế gian này
lại có thể hăng say đến thế trong công việc cho ngày mai.
Đã có lần tôi viết
rằng tôi đã chán ngấy cái vai MC nhà đòn. Tôi không muốn viết về cái chết của
một người bạn nào nữa. Ở tuổi tôi bạn bè cứ thưa dần. Tôi buồn mỗi lần phải xoá
đi trong sổ tay một địa chỉ chắc chắn chẳng còn bao giờ dùng đến. Tôi có những
người bạn đã từng nổi tiếng. Và cả những người chưa từng nổi tiếng. Với những
người chưa từng nổi tiếng, sự quên lãng của người đời để lại trong tôi cảm giác
bất nhẫn. Không nói gì về họ, chúng ta rơi vào vị thế của kẻ vô ơn. Những người
như thế không nhiều lắm, nhưng có, và có không ít đâu, ở quê hương tội nghiệp
của chúng ta. Những người như thế đều chung một số phận hẩm hiu, và rồi đây
lịch sử đất nước có trách nhiệm phải nhắc tới họ trong khi viết về một giai đoạn
đáng xấu hổ.
Đặng Phúc Lai là một
mảnh sao băng xẹt ngang bầu trời đen tối. Người xưa tin rằng nếu ai đó kịp nói
lên một điều ước trước khi mảnh sao băng tắt ngấm, điều ước ấy sẽ trở thành
hiện thực. Không biết Lai có nói lên điều ước nào trong một đêm nhìn lên bầu
trời sao trước khi chính anh trở thành một mảnh sao băng không? Nếu anh nói
kịp, chắc anh sẽ nói điều anh nói với tôi: "Tôi ước mong chế độ độc tài
cộng sản này sớm kết thúc, để cho con cháu chúng ta được sống như mọi người.
Không cần vẻ vang gì hết, mẹ kiếp, chỉ được sống như mọi người là tốt lắm
rồi."
Paris, tháng 2.2003