Mới hôm nào trên chuyến xe bus 4A, tuyến đường Oxford –
Wellington, hai thằng thanh niên nhận ra nhau cùng người Việt, mừng rỡ ngồi nói
chuyện hỏi thăm nhau: Một thằng đang trên đường đi rửa chén, còn một thằng đang
thất thểu đi tìm việc làm, nên rủ nhau ghé vào nhà hàng Lee Gardens xin rửa
chén chung… Quay qua quắt lại mới đó thôi, thế mà cũng đã ba mươi hai năm rồi!
32 đợt tuyết phong đã đủ để rắc muối trên những mái đầu xanh trẻ hôm nào, 32
mùa sương gió đã đủ để hằn sâu những vết nhăn trên vầng trán nhỏ bé ngày xưa,
32 năm tha phương đã đủ để biến gò má căng ròn trĩu nhựa hôm trước trở nên nhăn
nheo như đôi má của lão bà ai hạ…
Dĩ nhiên thời gian mang theo tì vết, nhưng có điều đáng lạ, là dường như trong
tâm hồn bọn mình vẫn không có những vết hằn đáng kể so với tuổi đời cho lắm. Tuổi
đã gần lục tuần, vậy mà mình vẫn còn giữ được lối nói chuyện hồn nhiên và những
nụ cười vô bổ của thời niên thiếu, nhiều khi tự thấy mình thơ ngây vô tội vạ vậy.
Nếu so sánh với sự chững chạc của ông cha ta ngày trước, có lẽ người ta sẽ cho
rằng chúng ta chỉ là những thằng con nít nhiều tuổi, hay những đứa bé có râu mà
thôi.
Einstein cho rằng thời gian sẽ co lại theo chuyển động. Nếu
so sánh một cách thô thiển thì khi mình lái xe từ A đến B, trong trường hợp
không có những rủi ro bất trắc như gây tai nạn hay bị cảnh sát giữ lại xin chữ
ký…, chân mình càng tống sâu ga thì thời gian để đến B càng thu ngắn lại, nói
nôm na thì thời gian tỷ lệ nghịch với tốc độ chuyển động.
Dù người ta có thuận ý hay nhạo báng luận thuyết tương đối về
thời gian của Einstein mặc lòng, câu chuyện hai anh em sinh đôi cũng phần nào cụ
thể hóa luận thuyết trên: “Người em được giữ lại sống bình thường trên trái
đất, trong khi người anh được cho lên phi thuyền bay vòng quanh vũ trụ. Vì phi
thuyền chuyển động với vận tốc quá nhanh khiến thời gian co lại, nên khi phi
thuyền trở lại thì người anh mới chập chững biết đi, trong khi người em đã con
đàn cháu đống”.
Chuyện Từ Thức của chúng ta kể rằng (trích):
“Từ Thức là một ông quan thanh liêm, tính tình hào phóng,
lòng hay thương người. Khi ngài cai trị ở huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, Từ Thức
rất được lòng thiên hạ bởi sự nhân hậu của Từ.
Gần chỗ huyện đường có một ngôi chùa trổ sanh một gốc mẫu
đơn. Hằng năm mỗi độ hoa nở, khách thập phương đến xem đông như ngày Hội, tiếng
đồn khắp xa gần.
Năm đó, khi hoa vừa nở thì có một cô gái nhan sắc tuyệt
trần, đến xem hoa, rủi chạm phải tay làm cho hoa rụng. Lính liền bắt giữ lại
không cho về. Thời may, lúc đó Từ Thức chợt đến nghe chuyện như vậy, liền xin
tha cô gái và cởi áo cừu đang mặc trao cho người giữ hoa để bắt đền.
Cô gái được thả ra, lạy tạ Từ Thức rồi bỏ đi. Từ Thức
cũng không buồn hỏi đến tên họ quê quán nàng.
Ngày ngày, Từ Thức ham cảnh gió mát trăng trong, ngắm hoa
vịnh nguyệt hơn là ngồi chốn công đường, vì vậy chàng hay mang bầu rượu túi thơ
đi lang thang tìm cảnh đẹp. Quan trên thấy vậy buông lời khiển trách, Từ Thức lấy
làm phiền nên treo ấn từ quan, không muốn trói buộc mình trong vòng danh lợi.
Từ đó, Từ Thức bềnh bồng một chiếc thuyền con ngao du đây
đó. Một hôm thuyền của Từ Thức đến cửa Thần Phù, trông ra ngoài biển thấy một vầng
mây ngũ sắc kết thành hình đóa hoa sen. Chàng động tánh hiếu kỳ cho thuyền lướt
tới. Trước mặt chàng bỗng hiện ra một dãy núi non thanh lịch. Chàng buộc thuyền
lại, một mình lên bờ, núi đá chập chùng không làm sao vượt lên được nữa. Còn
đang phân vân, những muốn lui về, bỗng thấy vách đá nứt ra, hiện thành cửa động.
Chàng bước lần vào, được vài bước tự nhiên cửa động đóng lại. Chàng đành liều
đi lần tới trước, được một lát thì con đường rộng mở thênh thang, một dãy đền
đài hiện ra với ánh sáng chói lòa, hoa thơm tỏa hương man mác.
Từ Thức say sưa ngắm cảnh, thoạt nghe tiếng cười trong trẻo
vang lên, ngửng nhìn, Từ Thức thấy hai cô gái áo xanh vừa cười vừa bảo:
– Kìa chú rể nhà ta đã đến.
Rồi hai nàng đến bảo Từ Thức:
– Phu nhân chúng tôi cho mời Từ lang vào.
Từ rảo bước theo hai nàng, vào đến cung điện. Từ nhìn thấy
hai bức hoành phi thếp chữ vàng “Quỳnh Hư Chi Ðiện”, “Giao Quang Chi Các”.
Một bà tiên mặc áo trắng ngồi ở giữa điện ra dấu mời Từ
Thức ngồi rồi hỏi:
– Từ sinh có biết nơi này là đâu không?
Từ Thức đáp:
– Lòng tôi còn đầy trần tục không rõ đây là nơi nào, dám
xin phu nhân chỉ dạy.
Bà tiên nói:
– Ðây là hang thứ sáu trong 36 động núi Phù Lai, núi này
đi khắp các mặt bể, chân không bén đến đất, chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi.
Ta là Ngụy phu nhân tiên chủ núi Nam Nhạc, vì thấy ngươi có đức nên cho mời đến.
Nói rồi bà tiên quay vào trong gọi một tiếng, tức thì một
tiên nữ từ trong tha thướt bước ra. Vừa thấy mặt nàng, Từ Thức nhớ ngay đến cô
gái làm gãy cành mẫu đơn ở Hội thưởng hoa.
Từ Thức còn đang ngơ ngác, thì bà tiên lên tiếng:
– Nàng này là con gái ta tên gọi Giáng Hương, ngày trước
gặp nạn ở Hội thưởng hoa nhờ chàng cứu thoát. Ðể đáp lại ơn xưa, ta cho nó kết
duyên cùng chàng.
Từ Thức không thể chối từ, nên liền đó hôn lễ cử hành dưới
ánh đèn mỡ phụng. Các tiên nữ đến mừng cưới rất đông. Từ Thức say sưa nhìn
Giáng Hương xinh đẹp trong chiếc áo cưới. Các tiên đều chúc tụng, chuốc rượu
cho Từ Thức đến say, rồi đưa vào loan phòng.
Ngày tháng trôi qua rất mau, Từ Thức sống trong hạnh phúc
bên cạnh Giáng Hương đã được một năm. Một hôm Từ Thức ra xem hồ, thấy sen nở
tưng bừng thì động lòng nhớ đến cõi tục. Chàng dắt Giáng Hương lên đỉnh non
tiên trỏ con thuyền đang lướt sóng trên mặt biển mà nói:
– Khi ra đi, anh còn có mẹ già không ai phụng dưỡng, mãi
say hưởng lửa duyên tiên mà anh quên mất đạo làm con. Vậy nàng hãy cho ta trở về
quê hương lo bề báo hiếu rồi ta sẽ trở lên cùng nàng sống mãi nơi cảnh tiên.
Nàng Giáng Hương buồn bã báo tin cho mẹ hay. Ngụy phu
nhân than rằng:
– Ta không ngờ con người ấy lòng trần chưa dứt, thôi thì
đành vậy chứ biết sao.
Bèn ra lệnh cho Giáng Hương sắm sửa một chiếc xe mây để
đưa Từ Thức về cõi trần. Hai người gạt lệ trong cuộc chia tay.
Từ Thức về đến làng xưa, mọi vật đều hoàn toàn thay đổi,
người trong làng không một ai quen biết nên chẳng nhận ra Từ. Chỉ có bãi cát cồn
dâu còn trơ trơ đó.
Ði tìm những người già cả trong làng hỏi xem có ai biết đến
Từ Thức không, thì có người đáp:
– Theo lời ông cố tôi kể lại, thì ngày xưa tại làng này
có ông Từ Thức đi lạc vào núi đã trên trăm năm, rồi từ ấy đến nay đã trải qua
ba đời vua.
Hỏi đến người khác, họ cũng đáp như vậy, bấy giờ Từ Thức
mới biết một ngày trên tiên bằng một năm ở dưới trần. Lòng Từ Thức buồn vô hạn.
Muốn trở lại cảnh tiên thì xe mây đã biến thành chim loan bay mất rồi.
Từ Thức chẳng còn hy vọng gặp lại Giáng Hương nên khoác
áo tơi, đội nón lá, chống gậy trúc đi vào núi Hoành Sơn rồi biệt tích”
(ngưng trích).
Bọn mình đang sống trong một điều kiện mà tốc độ biến động
nhanh gấp trăm vạn lần điều kiện sinh sống của ông cha ta. Chúng mình đã chạy một
chặng dài suốt từ Ðông sang Tây, đến đây còn tiếp tục chạy bở hơi để thích ứng
với môi trường tư bản. Rồi lại tiếp tục chạy vật chạy vã cho kịp với trào lưu
canh tân kinh tế ở đây. Trong cuộc cách mạng kinh tế lần thứ ba này, tốc độ
phát minh nhanh hơn tốc độ tiêu thụ, hàng hóa sản xuất ra chưa kịp bán đã lỗi
thời, muốn sống còn thì mình phải vắt chân lên cổ mà chạy, “chạy ngày chưa đủ
tranh thủ chạy đêm”, suốt ngày vật vã chạy theo dây chuyền xã hội, tối về cũng
phải vội vã chạy lên giường ngủ vội cho đủ sức mà chuẩn bị cho cuộc chạy ngày
mai… khiến thời gian co lại, tâm hồn ta trẻ trung hơn so với ông cha ta.
Trở lại chuyện Từ Thức, ngoài việc xác định luận thuyết
tương đối về thời gian khi cho Từ Thức ở lại sống cùng Giáng Hương nơi “hang
thứ sáu trong 36 động núi Phù Lai”, trong khi “núi này đi khắp các mặt bể,
chân không bén đến đất, chỉ theo chiều gió mà hợp tan thôi”, đã làm cho thời
gian một năm co lại còn có một ngày: “Một năm tiên cảnh một kiếp trần ai”.
Các cụ nhà mình cũng bắt Từ Thức phải chạy: Trước hết, Từ Thức
là một người bình thường bằng xương bằng thịt, cũng chất chứa đủ bảy thứ tình:
hỉ, nộ, ai, oán… như mọi người trong chúng ta. Từ Thức cũng được cha mẹ sinh
ra, cũng lớn lên trong tình thương yêu của gia đình, trong sự đùm bọc của quê
hương, đất nước. Từ Thức cũng được nuôi ăn cho lớn, được cho đi học để mở mang
kiến thức hầu giúp dật cho đời. Từ Thức cũng gói ghém giấc mơ tuổi ấu thời là lớn
lên sẽ làm được điều gì tốt đẹp để tô điểm núi sông và đền ơn nuôi dưỡng. Khởi
điểm từ cái nhân, “tính tình hào phóng, lòng hay thương người”, Từ
Thức đã chạy hộc hơi mới ra làm quan được để trả cái “nợ lần” mà con người đã
vay. Ra làm quan rồi, ông vẫn tiếp tục chạy để tô bồi cái nhân, “là một
ông quan thanh liêm, nhân hậu”.
Thế nhưng, Từ Thức không coi chuyện làm quan là cứu cánh của
cuộc đời, ông “không muốn trói buộc mình trong vòng danh lợi, nên hay
mang bầu rượu túi thơ đi lang thang tìm cảnh đẹp”. Và cái cảnh đẹp nhất mà
chàng đã bắt gặp là nàng tiên nữ yêu kiều Giáng Hương. Tiên là điều tưởng tượng
không có thật, ý chỉ những hoài bão, những ước mơ!
Đang sống trong mơ, “Một hôm Từ Thức ra xem hồ, thấy
sen nở tưng bừng thì động lòng nhớ đến cõi tục”. Từ Thức nhớ đến mẹ
già không ai phụng dưỡng nên lo về báo hiếu. Về với Mẹ nghĩa là về với thực tại,
về với nải chuối, với buồng cau…, về với nền nhân bản mẫu mực. Ðiều mà thế giới
tư bản hờ hững, trong khi cộng sản lại khẳng khái chối từ nên đã manh tâm bức tử
Mẹ, rồi rước một loại mẹ mìn ma mãnh về tôn thờ hòng lường gạt thế gian…
Trong “Bản nhận định về những sai lầm tai hại của Ðảng Cộng
sản Việt Nam đối với dân tộc và tôn giáo Việt Nam” gởi ông Tổng bí thư Ðỗ Mười,
Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ viết (trích):
“Trở lại vấn đề khoán trắng sau khi tập thể Hợp tác xã thất
bại. Nghĩa là bây giờ (1985) ruộng đem khoán trắng cho dân, nhưng khốn nỗi trâu
bò cày bừa và tất cả nông cụ khác trước đây đã góp hết vào Hợp tác xã, khi Hợp
tác xã giải thể, tài sản bán đấu giá, nông dân không được trả lại một món gì,
bây giờ lại phải mua sắm đồ mới. Nhưng khó nhất là trâu bò, hàng trăm nghìn đồng
một con trâu, dân lấy tiền đâu mà mua; xăng dầu lại đắt, không đủ sức thuê máy
cày. Vả lại, trước kia, khi vào Hợp tác xã thì các bờ ruộng phải phá hết đi để
làm thành “ruộng đồng cò bay thẳng cánh chó chạy cong đuôi” để cày máy. Bây giờ
ruộng khoán trắng, mỗi nhà vài ba sào (một sào Bắc bộ bằng 366m vuông), dân lại
phải đắp bờ lên để đánh dấu và giữ nước, thì dù người có khả năng thuê máy cày
cũng chẳng cày được. Cho nên đa số nông dân dùng cuốc và mai để cuốc và bẩy ruộng,
và cứ mỗi nhát cuốc dơ lên bập xuống, họ lại nói “Cơ giới hóa toàn quốc!” Họ bảo
“đảng ta” nói nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa toàn quốc mà! Trẻ em bảy tám tuổi
cũng phải cơ giới hóa toàn quốc. Cuốc xong, nhà nào có nhiều người trẻ khỏe thì
bừa lấy. Cứ hai người kéo, một người cầm bừa, mấy người đi trên đường thấy thế
khen: “Gớm, hai con trâu khỏe nhỉ!” rồi họ cười với nhau thông cảm.
Cảnh ấy làm tôi nhớ lại năm 1975 được xem cuốn phim chiếu
trên Tivi ở Saigon kể lại cuộc đời của cụ Hồ Chí Minh (lúc đó trong phim cụ được
gọi là anh Ba), từ bến Nhà Rồng Saigon cụ xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước,
mà một trong những nguyên nhân khiến cụ phải ra đi là cụ thấy người dân phải
làm thân trâu kéo cày. Bây giờ đây, sau gần nửa thế kỷ cách mạng thành công xây
dựng chủ nghĩa cộng sản, thì người dân lại phải kéo bừa thay trâu! Ở Vũ Ðoài
tôi chỉ thấy người kéo bừa chứ không ai kéo cày, vì nặng lắm. Cuộc đời thật là
cái đèn cù, quay hết vòng thì lại trở lại. Còn các tệ nạn xã hội như trộm cướp,
trấn lột, ăn mày, ăn hối lộ, nghiện ngập v.v… thì vẫn nhan nhản.
Thế là từ sau ngày cải cách đấu tố giết chết bảy trăm
nghìn người, đảng cộng sản đã hứa hẹn với nhân dân miền Bắc xây dựng một xã hội
thiên đường trên mặt đất, đến nay đã ba mươi sáu năm (1956-1992) mà vẫn chưa thực
hiện được, có lẽ nó chỉ là cái bánh vẽ chăng?” (ngưng trích)
Đối mặt với thực tại, “Từ Thức về đến làng xưa, mọi
vật đều hoàn toàn thay đổi, người trong làng không một ai quen biết nên chẳng
nhận ra Từ. Chỉ có bãi cát cồn dâu còn trơ trơ đó”, biết giấc mơ tiên là điều
không có thật, chẳng ai nhận ra Từ, Từ đành “khoác áo tơi, đội nón lá,
chống gậy trúc đi vào núi Hoành Sơn rồi biệt tích”: Biết thiên hạ ngán
ngẩm nên dứt khoát giã từ, không dám khinh thường mà xúc phạm nhân tính người
khác, vậy mới gọi là Từ: “Thức”. Thức Thiệt à nha!
Trong khi hình ảnh người dân đem thân kéo cày thay trâu,
kích động Thức “Giả” đi tìm đường cứu nước, rồi ôm cái chủ thuyết hoang tưởng
xã hội chủ nghĩa về khoác lên đầu lên cổ dân tộc, đấu tố giết chết 700,000 người…
Gần nửa thế kỷ xây dựng chủ nghĩa hoang đường, đến năm 1992, cảnh người dân
thay trâu kéo cày vẫn còn trơ trơ đó, mà Thức “Giả” kia chưa biệt tích, vẫn
“ngoẻo” thây nằm nghênh ngang ở Ba Đình để tiếp tục phỉnh gạt dân tộc!
Lại kéo dài thêm 20 năm nữa, đến tháng 2, 2012, những tấm
hình kéo cày thay trâu vẫn còn thấy đăng trên mặt báo điện tử Tienphong.vn? Thế
mà tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 1/2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
Đảng cộng sản Việt Nam vẫn thô bỉ dối trá rằng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Vũ Thư Hiên đã bừng thức trong “Đêm giữa ban ngày” (trích):
“Bây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ Chí
Minh chẳng là cái gì. Ông mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới, sao vàng năm cánh
mộng hồn quanh. Con rồng, ai cũng biết, là biểu tượng của nhà vua. Ông mơ cưỡi
nó thì ông đâu phải là một người trong chúng ta. Than ôi, lũ dân thường chúng
ta làm gì có những giấc mơ như thế. Chúng ta chỉ mơ thấy cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi
ngựa. Sang lắm thì cưỡi bình bịch là cùng. Lẽ ra tôi phải hiểu sớm hơn mới phải:
bác Hồ của tôi từ lúc đang phải sống lẩn lút để làm cách mạng đã ôm ấp mộng ước
làm vua. Ông có chí lớn để thực hiện nó. Và ông đã thực hiện được.
Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi
người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Stalin
cũng nói thế. Mao Trạch Đông cũng nói thế.
Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì
đó. Khi là vốn, nó thôi là Người” (ngưng trích).
Hỡi ôi! Chẳng lẽ dân tộc tôi cam tâm làm vốn cho đảng kinh
doanh mãi sao trời? Sao đành miệt mài ngủ miết? Chưa chịu thức dậy mà quăng Từ:
“Ngoẻo” vô sọt rác?
Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!
Phạm Khắc Trung