I
Cô bé ám ảnh chữ “Thị” từ thuở nhỏ. Những người có chữ “Thị”
từng là cô giáo của bé từ những năm tháng ấu thơ. Cô bé nhớ cô Nguyễn Thị Thời
người ở Quảng Bình dạy cô hai năm lớp Một thời bao cấp. Cô bé thường cười mỉm một
mình khi tưởng tượng ra những gương mặt ngây ngô của đám bạn trong lớp tiểu học
hơn mình một tuổi đang gạch gạch từng “cây sắn” trên trang giấy màu trắng đầy
gân đen. Những trang vở mà cô tưởng tượng như người ta ép bã mía thật mỏng mà
ra thành những tờ vở ấy vậy. Thời ấy, cô theo dì đến trường và học “ngoại sổ”
cho hết những buổi chiều tuổi thơ. Cứ mỗi mùa mưa, cô thường nhớ da diết lắm
cây trứng gà. Nhớ người cô thân yêu của bé thật hiền lành, cô ấy thích những
trái màu vàng lủng lẳng nở bung trên cành như lòng đỏ trứng gà ấy, còn cô thì
ghét cái mùi của chúng.
“Thị”, nó cứ bám riết lấy khi cô thấy ai đó cứ ghi nhầm vào
giữa tên mình. Và “thị” này bây giờ cứ bám riết cô khi hàng ngày cô thấy người
đàn ông bụng ỏng, chân ngắn, lưng dài mặt dày tựa cái thớt gỗ mít ngày xưa bà
ngoại dùng để băm rau cho heo. Cô nghe thấy người này gọi cô là thị trong ánh mắt
trắng dã như cá giếc bị chết. Anh ta ít khi nhìn trực diện, hoặc nhìn là cứ trừng
đôi mắt đỏ lừng để xiết chặt từng lời rao giảng đạo đức. Cô lại lắng nghe, và
cô lại mỉm cười liên tưởng đến những “cây sắn” ngày xưa lũ bạn ngây ngô gạch gạch
trong những ngày đầu học tiểu học.
Chiều nay, cô nghe anh ta nói với ai đó về chiếc xe máy thật
mới ở ngoài kia:
- Của thị đó, chứ của ai vào đây nữa – cái giọng nửa Bắc nửa
Trung rít qua mấy cái răng khít chặt của gã.
Tiếng giày vọng lại, nghe buốt răng, đầu dãy hành lang phía
trên kia. Nó vang xuống ở dưới này. Gã đang đi rảo và thò ra cái tai của loài
dơi. Nó đang nhích nhích trên các khe gỗ của tấm pla-phông.
Cô lại thấy chữ thị sắp rơi vào giữa tên mình, một buổi chiều
mưa đông nát vụn.
***
Lớp Một năm học 80.
Năm ấy cô bé học ngoại sổ. Những chữ i tờ vẫn còn hiện rõ lắm.
Cô bé nhớ sự hãnh diện của mình về cái tên không mang chữ thị như những đứa
kia. Cô giáo dạy đánh vần, dạy đọc tên mình. Cô đã đọc thật nhanh và thật to, rồi
liếc mắt nhìn mấy đứa kia thật là khinh thị. Rồi lớp 2,3,4,5… lớn dần lên. Rồi
81,82,83,84… , chữ Thị cứ nở trương lên trong mắt cô. Cô cảm thấy hằn học nếu
thầy cô hay ai đó gọi tên, ghi tên cô cứ chen nhầm chữ Thị vào. Người ta vẫn
còn nhầm khi cô lên cấp ba hay vào đại học, và vẫn nhầm cho đên khi cô đã đi
làm. Cô dị ứng với chữ Thị thỉnh thoảng trong giấc ngủ, nó làm cô giật mình. Nếu
ai đó nói đến kiếp trước với căn nguyên Thị là một bông hoa nhài thì cô thấy thật
buồn cười. Nếu vậy thì với cô, bông nhài đó đã thẫm đen kể từ khi bắt đầu cắt
dây rốn từ bụng mẹ. Những ngày tháng ấu thơ có trong trẻo thơm ngát cũng là nhờ
ánh mắt nhân từ của một mình cha và đôi tay cần mẫn của mẹ. Ai bảo là Thị phải
tập nấu cơm, Thị phải tập may vá thêu thùa, Thị phải tập cái chu tất để mà lo
lót hết những gồ ghề trên con đường đi tới tương lai của gia đình mình.
Cô nhớ một lần nào đó người đàn ông cãi nhau với người đàn
bà. Câu cuối cùng cô nghe được:
- Hèn chi người ta nói đàn bà không thể đái qua ngọn cỏ!
Nên im lặng đi, im lặng hoặc là nói chuyện với bếp núc, con
cái thì hay hơn. Người ta nói chuyện với nhau về tướng vượng phu của người đàn
bà. Cô cười, không biết mình giấu đôi gò má hơi cao này vào đâu nhỉ. Một đêm cô
nằm thấy chữ thị xếp thật cân xứng ngay giữa gương mặt. Chữ T như căng gương mặt
cô trên cây thánh giá mà sợ hãi nhìn từng đôi tay nện thẳng những chiếc đinh
xuyên qua những lớp da thịt đau đớn. Cô thấy những vết thương ở đó không hề chảy
máu mà liền ngay lại trên gương mặt có vẻ ngoài đẹp hơn xưa. Bên dưới lớp da đẹp
ấy đã giấu đi rất nhiều dòng máu đen đang tắc nghẽn.
***
Image result for tranh nguyễn trung
Sông Hương một buổi chiều đầu đông.
Năm nay cái lạnh đến muộn. Hôm ấy nước dâng lên thật nhanh.
Màu xanh trong lành đã trôi về hướng nào không biết nữa. Cô nghĩ: chắc nó chảy
lên thượng nguồn! Thật là phi lý hết sức. Cô cười cho cái suy nghĩ kỳ quái của
mình. Có ai chấp nhận cho điều ấy đâu. Ngay cả dòng nước!
Phía đầu xa đang đi gần lại, một chiếc thuyền nan nhỏ và hai
ông mệ già. Ông ngồi ở tận phía sau, mệ ngồi cheo leo đầu mũi. Cả hai cùng nhịp
chèo thật nhanh và đều. Con thuyền nhỏ cứ lướt nhanh và cuối cùng dừng lại để
ông thả lưới. Rồi họ lại bơi vòng quanh, lần này mệ chèo và người đàn ông lấy
mái chèo đập thật to vào tấm gỗ nhỏ. Họ đang đuổi cá vào lưới. Cô ngồi đó và
nhìn theo từng hành động thoăn thoắt của đôi vợ chồng già. Mưa lất phất. Chữ Thị
rơi rơi, vui vui, tủi tủi. Gió xiết một điều gì thật kỳ lạ.
***
Hôm ấy ngày kỵ ngoại. Cô về quê. Những con đường thật lạ bởi
nó không còn màu đất. Những ô ruộng hai bên đường đã không còn mà người ta đã đổ
đất vào, ở đấy nay đã mọc rất nhiều ngôi nhà mới. Những ngôi nhà xây trồi thụt
bên con đường ngày xưa cô thuộc làu những mõm đá. Những bờ rào tre có, sắt có…
phơi đầy quần áo.
Cô nhớ ngày xưa đã bao lần vượt qua nỗi sợ hãi khi đi qua
con đường nhỏ về nhà ngoại. Nơi con đường ấy, có ngôi nhà gần như bỏ hoang.
Ngôi nhà của mẹ con mệ Tôn đã bị một gã du kích làm việc ở ủy ban xã giết hại
cướp của vào một đêm mưa gió sau năm 75. Gã ấy là một tên lông bông không cha mẹ,
suýt chút nữa gã đã được là con nuôi của mệ Tôn vì mệ đã từng có ý định ấy, và
gia đình mệ lại giàu có. Một ngày người ta phát hiện xác mẹ con mệ được hắn
chôn dưới mấy vồng khoai sau nhà. Hắn trốn biệt tích và lệnh truy nã có lẽ bây
giờ đã quá cũ kỹ. Ngôi nhà ấy có ma, thuở nhỏ cô nghe người lớn nói vậy. Và người
lớn cũng nói cho cô biết về ông Quận Chi về ở đó sau mấy năm. Ông ấy là cháu
đích tôn của chủ nhân ngôi nhà to lớn ấy. Ngoại nói ông ấy từng là quận trưởng
trên Diêm Trường, bấy giờ chừng ông khoảng ngoài sáu mươi tuổi.Thời ấy, cô thường
thấy ông ấy lúc nào cũng mặc một bộ đồ thật khác người ở đây: quần âu màu đen,
áo khoác dài màu trắng ngà cũ kỹ, đôi giày đen rộng như đôi bốt, đầu đội mũ
đen, bên dưới là gương mặt hiền ra vẻ quý tộc và trí thức. Tất cả vẻ ngoài của
ông ta luôn gợi cho cô một sự tò mò. Cô bé ngày ấy nhìn ông ta thật lạ lẫm: ông
ta là kẻ không sợ ma, ông ta sống một mình trong ấy. Những người lớn lại nói với
nhau rằng, ông Quận Chi bị cùi (bệnh hủi), và trong đầu của cô thời bé ấy nghĩ
về bệnh hủi là một điều gì thật gớm ghiếc, còn hơn là sự hình dung về sự mục rữa
của con chó chết già nằm phơi xác ngoài
đồng. Hầu như ông ấy chẳng bao giờ nói chuyện với ai. Một lần cô bé nghe được
giọng nói của ông ấy, giọng thật nhẹ và lơ lớ Huế, hình như ông ấy lớn lên từ một
nơi nào đó ở miền Nam.
Miền quê vào những ngày xa xưa ấy thật lặng yên trong sự thiếu
thốn. Cô không hề nghe một lời than vãn trừ tiếng thở dài tiếc nuối của Ngoại.
Một mùa hè con nước ngoài phá dạt đầy hến, Ngoại nói:
- Trời sắp nạn, sắp đói to rồi đó.
Năm ấy cửa biển bị lấp, nước phèn đọng đầy đồng, chua oi cả
mùa thất bát. Mấy con lợn ốm thoi ốm thắt của Ngoại cũng bị bệnh dịch chết, đàn
gà cũng rũ ra mà toi. Những nhà hàng xóm chung quanh chạy vạy đi mượn gạo, vay
lúa non. May ra Ngoại vẫn còn cái để mà dự trữ, cũng nhờ cái hà tiện của Ngoại
có được từ thời Pháp thuộc (ngoại phải vớt gạo chìm dưới sông mà phơi để có cơm
đem thăm nuôi ông ngoại ở lao Thừa Phủ vì mang tội chống Pháp).
Ngày ấy cô bé đi ngang nhà ông Quận Chi, có người đàn bà đã
luống tuổi mặc bộ đồ hoa xanh đen đang lúi húi ngắt rau ngoài vườn nhà ông. Mấy
đứa trẻ con bảo nhau:
- Vợ ông đó. Mụ Xuân bị điên ở xóm hẻo.
Nhìn gương mặt người đàn bà này có vẻ ngây ngô dại dại thật.
Gương mặt to và chiếc mũi bành bành, hai con mắt thì thô lố. Cô bé ngày ấy thấy
sờ sợ.
-Đúng là Thị. Thị là như vậy đấy.
Hình như gia đình vợ con của ông ấy tứ tán trong chiến
tranh. Ông ấy tìm về đây để sống những ngày còn lại của mình. Ông thấy bà Xuân
này thui thủi mọt mình với mấy ô ruộng trong nương, ông rủ về ở chung. Dù sao
có bà Xuân này ông cũng đỡ lo chạy gạo bữa có bữa không. Và cô biết thêm, ông ấy
không bị bệnh cùi hủi gì cả. Người ta sợ, người ta ngại nên hay đặt điều cho cả
đám trẻ con tin như vậy.
Một ngày cô nghe có tiếng trẻ con khóc trong ngôi nhà ấy và
sau đó lại nghe người ta nói đứa trẻ bị chết vì mẹ nó cho bú mà ngủ quên đè ngạt
mũi.
Và ngôi nhà lành lạnh bên con đường nhỏ ngày xưa cô phải đi
ngang vẫn lầm lụi những cái bóng của hai con người ấy. Phía bên trong kia, cô
nhìn thấy những chữ Thị đã níu vào nhau nuôi sống họ qua những tháng ngày đáng
thương.
***
Tháng mười, mưa lùa về trên dải đất miền Trung. Hầu như con
người ta đã đã quên ngay cái nắng gió rát da rát thịt từ mùa trước. Có điều gì
đó cứ váng vất. Cô thường hay nhớ về mùa lụt lội nước lên trắng xóa cánh đồng.
Những gương mặt ngày xưa vẫn còn nằm lại đó trong một ngôi làng có mấy con đường
rẽ. Ngôi nhà xây đá xanh ngày xưa đã rêu phong cùng với tuổi của cô, của dì, của
những người mãi gắn chặt cuộc đời mình ở đó. Người mất người còn. Ngày xưa ấy
bây giờ tìm đâu ra, những gương mặt thơ ngây hay là cam chịu cũng không biết nữa.
Cái cảm giác ngày xưa cô bé vừa đi vừa đếm những cái cổng nhà, đánh dấu từng
cái quán nhỏ trên con đường đi đến trường.
Có cả những con đường tắt và cơn đói bụng hành hạ kéo dài đến
quay quắt.
Sông vẫn nằm ở đó và chảy xuôi. Trời lạnh buốt, bây giờ đã gần
qua tháng mười âm lịch, người ta nói: “Ông tha mà bà không tha/ Cho nên có lụt
hăm ba tháng mười”. Huế năm nay mưa muộn và có vẻ như trời sẽ không dâng lụt.
Mưa dầm và lạnh buốt. Mặt đường rét căm căm. Cô đang đi và nghĩ ngợi: “Giờ này
mà có ở quê thì mình sẽ đi tìm những đụn nấm mối ngoài bờ tre mọc hơn chục năm
trước, chắc là sẽ có. Trời lạnh thế này thì nấm mối sẽ mọc”. Nếu như không nhuận
hai tháng chín thì bây giờ đã chuẩn bị rục rịch Tết rồi. Chiều về, trời buốt
hơn, gió rát rạt trên gương mặt, mưa nặng hạt hơn, cô ghé vào khu chợ nhỏ chủ yếu
bán cho khách mua ở gần đấy.
Những cái dù xòe rộng rách tả tơi, bên dưới các bà các chị
bán những miếng thịt và vài con cá ươn còn ế lại từ phiên chợ sáng. Nước mưa chảy
ròng, cô mua vội ít rau và trứng, cũng kịp liếc nhìn bên dưới những chiếc nón và
áo mưa những gương mặt của những người bán hàng quen thuộc. Hôm nay nhìn họ có
vẻ xanh tái hơn. Trời lạnh buốt. Rẽ về tới ngõ gần nhà, mùi bánh chuối chiên
thơm lừng và dáng mệ già – người hàng xóm của cô đang đứng co ro bên cái bếp với
thau bột. Mệ vừa làm vừa đợi bán hàng, những chiếc bánh nóng hổi vừa vớt lên lập
tức bị nguội lạnh ngay.
- Ở đâu cũng gặp Thị. Mình cũng Thị… Cô thở dài mệt mỏi.
Thế những người đàn ông của những Thị đó ở đâu? Cô nói: “Họ
đang bận đứng đái qua ngọn cỏ” . Gương mặt của họ thật là to tát, như cái sĩ diện
của họ cũng vốn to tát như thế. Cô nghĩ: những người đàn ông này có lẽ họ có bộ
não thật phẳng để sẵn sàng quên ngay hoặc vứt đổ những lời tử tế của những người
đàn bà đáng thương kia. Ở một nơi nào đó, có thể họ đang ngồi xem ti vi chờ được
mời cơm, hoặc họ đang rung đùi nghiền ngẫm những tờ báo bóng đá, hoặc họ đang cụng
ly để thả những lời lên mây và vỗ ngực mình là hảo hán.
Hôm nay ti vi dự báo thời tiết trời lạnh hơn, có thể cơn bão
sẽ đổ bộ vào đất liền. Gió rít. Những tấm tôn giật phần phật ồn ào. Bây giờ tự
dưng cô muốn đi một mình trên một cây cầu, ở giữa đêm chưa giác ngộ.
Cô nằm xuống trên nó và nhìn vào bầu trời tối bao phủ với
triệu triệu ngôi sao.
Nơi suy nghĩ không thể kết thúc và bắt đầu, ngôi sao không
nhìn rõ cô, hình như chúng đang lấp lánh. Và cô muốn gọi tên thật to cho vì sao
rơi trên mắt, cả những lời cầu nguyện duy nhất cuộc sống của cô sẽ trôi đi. Khi
ngôi sao trả lời cô: Cảm ơn! Cô có thể nghe được lời cảm ơn của cả bầu trời
đêm, rằng hôm nay cô là ngôi sao duy nhất. Cô hét lên thật to:
- Này thị! Cuối cùng rồi mày cũng tan vào bóng đêm !
Phía xa, đêm lại bắt đầu. Những con đom đóm thi nhau lấp
lánh bay lên trên những cụm lau đầu đông.
Đêm nay thật khó ngủ, cô từ từ thả rơi giấc mơ của mình đến
một ngôi làng. Ở ngôi làng ấy, cô thấy những người đàn ông mang những gương mặt
bành bành như những phụ nữ dị dạng. Họ ngồi sắp hàng chờ bác sĩ đến khám cho
căn bệnh kỳ lạ mà chỉ đàn ông mới mắc phải: Hội chứng Kashin Beck hay còn gọi
là bệnh xương to. Cô nghe bác sĩ nói đây là căn bệnh gây ra do thiếu hụt sự bao
dung. Những vị bác sĩ vừa tới, họ đã đứng dậy và xếp hàng chờ khám. Cô nghe tiếng
bác sĩ gọi to:
- Mai Thị …
- Văn Thị…
- Cao Thị…
Những gương mặt hớn hở xun xoe chạy lại. Những người đàn ông
mang chữ Thị lần lượt chìa đôi tay, xắn cao ống quần cho bác sĩ xem triệu chứng
xương to kỳ lạ của mình. Cô phải bụm một mắt lại để nhìn họ một lần nữa cho thật
kỹ.
II
Những người đàn ông thời nay cũng có loại tám vía, cô nghĩ vậy.
Hôm nay chị bạn cùng cơ quan a lô hỏi cô về chuyện của nhà chị. Chị ấy hỏi cô về
đứa con trai mang chữ “Thị” hơi nhiều, vậy thì khi cúng dâng sao phải làm thế
nào đây. Năm nay cái hạn sao La Hầu cần phải được giải trừ. Vậy mà đứa con trai
của chị quá hiền lành như con gái. Đúng thật, cô nhìn nó tử tế thật như là con
gái. Có người nói với chị ấy: “Thằng con chị như con gái, mụ bà bắt lộn í”. Chị
ấy giận thật, chị ấy trút tất cả những cái bực tức ấy qua điện thoại với cô.
Dâng sao giải hạn? Cô bật cười. Không lẽ cô nói với chị ấy: “Vẽ một chữ Thị thật
to để mà dâng, xong rồi hỏa táng nó đi”.
Chữ “Thị”, nó như một chứng tật sinh ra từ vết sẹo nơi cuống
rốn. Những điều tầm phào, những điều vãnh vặt cứ nháo nhào lên trong ngày như một
lũ vịt nhao nhao đói ăn. Cô muốn hóa kiếp chúng (tất nhiên chúng ở cả trong cô
trước tiên), dù việc hóa kiếp có khó khăn như người ta hóa kiếp con vịt và nhổ
từng cọng lông măng- những cọng lông măng chưa kịp dài để trơn trượt trong nước
mà bơi. Để rồi linh hồn của lũ vịt ấy chắp lên đôi cánh mà bay lên như thiên nga,
vùng vẫy đến bầu trời mà chẳng bao giờ chúng bơi được đến đấy.
Suy cho cùng, người đàn ông rụng từ cuống rốn của người đàn
bà nên họ cần sự dẫn dắt của những bà mẹ từ thuở nhỏ. Nhưng lớn lên,
thì đa số họ rất muốn làm ngược lại với những người phụ nữ bên cạnh
mình. Cô nghĩ, hay tại họ nghĩ rằng, người phụ nữ ấy rất nhạy cảm,
có thể bỡn cợt về sự nông nổi của của họ. Nhưng đôi khi họ lại tự nguyện như
lũ cá ngựa hay loài cánh cụt, sinh con và ấp trứng. Hoặc cứ thử nhìn vào căn bếp
có hình ảnh người đàn ông mang cái tạp dề nấu ăn cho vợ và lũ trẻ, ắt hẳn đó là
một gia đình hạnh phúc, bởi lẽ người phụ nữ có sự biết ơn và chân thành hơn đàn
ông. Còn người đàn ông thì hay quên, thậm chí anh ta quên là ai đang đứng trong
căn bếp kia nấu những thức ăn hàng ngày cho mình. Có lẽ lúc ấy, người đàn ông
này có đôi mắt không giác mạc, không phân biệt được ngày-đêm, đất-trời, tồn tại
và sống, hay một điều rõ ràng hơn: đó là chết và sống.
***
Thuở mới năm, sáu tuổi, cô nhớ lắm về một bờ mù u bên bờ
mương thật đẹp ở quê nội. Đẹp và buồn hun hút. Nơi ấy bây giờ đã đỡ đi cái
gió nắng của miền biển hoang sơ. Có con đường dài rợp bóng dừa. Cha cô hay đặt cô lên vai,
vừa đi vừa hát như thế. Có lần cô ham hái những trái mù u xanh về nhốt
trong cái hộp giấy, như cô từng nhốt những ước mơ về một cuộc sống chỉ có trong
suy nghĩ của mình. Cô đã cố trèo ra những cành xa mà hái, “roẹt, roẹt”, cái
quần bị bứt một đường chỉ dài, cha đã xin lỗi những người khách để ra nhà sau
khâu lại quần cho cô. Cô nghĩ: “Những việc ấy chỉ dành cho “Thị” làm, nhưng cha
đã làm được, cha đã lấy đi bớt chữ Thị trong suy nghĩ của cô từ trong những năm
tháng còn nhỏ dại ấy. Cô nghĩ: “Ai cũng có thể là Thị”. Cha cô dạy học, mẹ cô
cũng dạy học, như nhau cả thôi, nhưng có
điều là mẹ cô biết dạy nấu ăn, cha thì tuyệt nhiên không. Có lẽ cha chỉ biết có
mỗi việc của “Thị” là đun nước pha trà. Những ngụm trà chát chát ngọt ngọt kia
có lẽ không hợp với “Thị”, bởi cô chưa thấy mẹ uống trà vào mỗi buổi sáng như
cha bao giờ.
***
Huế bây giờ đã vào mùa Giêng Hai. Chữ Thị đã đi qua
thêm một tuổi. Trời se se lành lạnh, đẫm sương mù từ sáng sớm. Cô
lại nhớ lắm những cái quạt giấy phe phẩy của ngoại vào mùa hè
nóng bức. Sáng nay, chủ nhật, cô ghé đến quán ở Xẹc (Cercle Sportif)
uống cà phê rất sớm, dìu dịu như cái gió lạnh từ sông Hương thổi
vào. Một lời bài hát quen: I will survive, thấy mình vẫn chưa thay ổ
khoá ngu xuẩn. Cô nghe như có những mũi gai đâm vào người tê tái. Cô
hình dung bến Xẹc màu xanh hoang sơ thời cô chưa lọt lòng, rồi bể bơi
đông đúc của tuổi thơ, rồi gió bấc, tím tái mưa phùn, cứ kéo dài
nỗi buồn lai rai.
Người ta nói, mùa Giêng Hai ở Huế “cắn móng tay không
ra máu” là vậy. Lạnh thấu xương. Cô lại nhớ đến ngày xưa, các chị
các mệ lại vào mùa đi cấy. Những đôi chân trần lại dầm trong những
lớp bùn ngoài những ô ruộng xa. Bây giờ, trong mơ ước của cô có hình thù
con ngựa gỗ. Con ngựa chỉ được gắn từ ba tấm gỗ mít, nó không có tai và miệng.
Tuổi thơ của cô được ngồi lên đó mà phi. Ngựa phi từ từ thật thong thả, rồi phi
nước kiệu. Ngựa băng qua những con đường cỏ trên cánh đồng vào buổi sáng mùa
giáp Tết, cô nhìn thấy mấy bà, mấy o đang lom khom cấy, những tấm lưng trần, những
làn nước dưới lớp bùn lạnh buốt, phía bên kia mạ đang lấm tấm trổ màu xanh
non. Mùa ấy, những người đàn ông đã xong mùa cày bừa, họ đang ngồi nhắp từng ngụm
trà hay khề khà bên những cái bàn, nói chuyện về những lễ hội sắp tới. Những lễ
hội mà những người mang chữ “Thị” không bao giờ được đứng ở giữa lễ điện, nó
không hề tồn tại trong những giấc mơ hay trong suy nghĩ của những kẻ bị xem là
mang thói ngông cuồng của đàn bà. Những người đàn bà tụm lại với nhau, nấu nướng
trong gian bếp núc, trong lòng thầm nghĩ: “của chồng, công vợ”. Ừ, thì vậy, tổ
tiên sẽ phù hộ cho chồng con của họ, thêm cả họ nữa nên rất mừng. Những tiếng
cười hể hả, những câu chuyện vụn vặt như những mớ thức ăn thừa khi họ rửa dọn
chén bát sau khi tàn tiệc.
Những cái điệp khúc cũ cứ vấn tròn như ngày xưa các cô gái
ngày xưa vấn tóc đội khăn mỏ quạ. Cô nhìn ngoài xa ở bên kia bờ sông, trừ những
ngày mưa bão, những người đàn bà ở xóm chài đang dầm mình dưới nước để mò ốc,
đãi hến rồi mang ra bờ cầu bán. Những chiếc lưng cong khệ nệ bưng những cái
sàng hến sàng ốc nặng trịch đặt lên bờ. Những mẹt ốc bé xíu giăng đầy hai
bên thành cầu, vệ đường. Cầu mới nối liền đường Hàn Mặc Tử đi về
Vỹ Dạ, cầu An Cựu, cầu Bến Ngự… Những thân phận ốc, người cứ thế
được mang ra luộc lên từng ngày, thơm phưng phức. Mùi thơm quyện mùi
vị mồ hôi, mùi vị tuổi người nghe nồng mùi gừng chanh sả. Những thứ
ấy đã được giã nhuyễn tẩm ướp những mảnh đời mưu sinh cơ cực. Và
họ đã đi qua những tháng ngày vô tư, hồn nhiên như nụ cười hồ hởi
của họ khi có khách hàng ghé mua.
Nắng chiều đã bỏ quên đâu đó những suy nghĩ lãng mạn, chúng
đã trở nên xấu xí với khung cảnh nên thơ của dòng sông đang chảy trôi êm
đềm.
Và mỗi buổi sáng, cứ thế, chữ “Thị” lại chói mắt khi ánh mặt
trời lên, rồi lại quen dần, cứ lom khom lom khom cho hết từng ngày mới. Rồi
ngày cũ lại bị bỏ quên bên vệ đường. Chúng sẽ trôi vào giấc cô miên,
trong mùi trầm hương tịch mịch.
Nguyễn Hoàng Anh Thư