.jpg)
Sài Gòn vốn dĩ không
đứng yên. Ảnh: Thanh Tùng
Trong rất nhiều cuộc
đàm luận về Sài Gòn, người ta vẫn luôn đặt ra cho tôi một câu hỏi: “Rồi tôi sẽ
biết giới thiệu Sài Gòn với người ở xa đến như thế nào, một khi thương xá Tax,
Eden, những ngôi cổ tự và cả những công viên bị xóa sổ?”
Tôi cũng được nghe về
lời than vãn của một vị giám đốc một công ty du lịch nhà nước cỡ bự rằng “Thú
thiệt, Sài Gòn nhỏ xíu, lịch sử cũng non trẻ mà sản vật thì toàn đồ tứ xứ, thắng
cảnh thì không có. Tôi cũng chẳng biết phải dẫn du khách đi đâu, làm gì ngoài
chụp cho họ mấy cái nón lá, áo thun I Love Saigon và dẫn đi mua tranh sơn mài”.
Hồ đồ, tôi nghĩ, vị
này nên trao việc lại cho tôi, hay bất cứ thị dân Sài Gòn nào khác, bởi hành
trình của chúng tôi cho một “gói tour” như vậy vẫn chưa dừng lại, mà không cần
quá nhiều dữ liệu có thể tìm thấy ngay trên internet.
Bởi với Sài Gòn, tòa
lầu, cổ thị, món ăn, chốn chơi…tất thảy chỉ là cái cớ, cái nền của những gì làm
nên màu sắc bản địa thực thụ, thứ “bùa ngải” gây lưu luyến và hiếu kỳ trọn đời
cho người đến, khó quên hơn cho kẻ đi, và ám ảnh trọn đời cho người luôn sống
bên mình nó, giữa hân hoan chuyện mới và trầm ngâm tích cũ, những huyền thoại
bản xứ vô danh.
Mà điều tuyệt thú, đó
là mỗi thị dân đều có riêng cho mình những “gói tour” như vậy, không ai giống
ai, mà danh sách hành trình càng dài tha thiết như trầm tích kí ức, lần giở
chuyện kỷ niệm tào lao riêng tư, trên cái nền thời cuộc vận hành mà thành hành
trình dài vô tận của người đời và đời người.
Mà Sài Gòn đồng bóng
hiếu động, nó vận hành nhanh lắm, như người đàn bà vừa thủy chung cũ kỹ, lại
vừa bặt thiệp quảng giao, đa mang, theo mùa hợp mốt. Bất cứ lúc nào, người ta
cũng có thể nhắc nhau hãy nhìn đi, thâu tóm, tận hưởng và ghi nhớ đi, bởi ngày
mai, có thể chỉ một ngày mai đâu đó đây thôi, những điều này sẽ không còn ở
nguyên đây nữa, như ả nhân tình rắn mắt, biết đâu sớm mai đã kịp thay chiếc áo
lụa màu xa lạ, biết đâu sớm mai đã kịp vô thẩm mỹ viện cho kịp mốt mới. Quyến
luyến nét hoa hương lụa mới chỉ mới kịp hằn kí ức đã lại thoăn thoắt đổi thay
tới choáng ngợp.
Bởi Nàng cần giữ hoài
thanh tân, nuôi hoài trò cút bắt vồ vập như từ đầu.

Mỗi thị dân lại là
một Sài Gòn rất riêng, một lối vào sâu thẳm
những báu châu của hồi ức đô thị. Ảnh: Doi Kuro
những báu châu của hồi ức đô thị. Ảnh: Doi Kuro
Sài Gòn nhỏ lắm,
người ta đâu có thể đi đâu xa, “nếu cứ đi thẳng về phía trước” như văn hào
Saint Exupery từng viết vậy.
Ở Sài Gòn, người ta
chỉ có thể đi rất sâu vào nó, như lần dở, vuốt ve từng lớp lụa tà áo giai nhân
mà chẳng bao giờ có thể chiếm hữu cho tận cùng phỉ mãn si mê.
Bởi hành trình của
riêng tôi đây, hơn 30 chưa tận, nên xá chi một đôi vòng ngao du bát phố, “thả
bùa” tương tư cho khách ở xa chiêm ngẫm Sài Gòn thực thụ của ký ức riêng mỗi
thị dân, sống vay vào vài tầng trầm tích cuộc đời trong vòng vài giờ, đôi hôm
ngọc ngà kỳ thú.
Mà, như đã nói, mỗi
thị dân lại là một Sài Gòn rất riêng, một lối vào sâu thẳm những báu châu của
hồi ức đô thị.
Điều đó mới chính là
thứ làm nên sức rù quến bí ẩn của viên minh châu huyền thoại xứ Viễn Đông.
Quán nửa khuya, đèn
mờ theo hơi khói…
Nếu là một hướng dẫn
viên du lịch, tôi sẽ bắt đầu hành trình của mình bằng một đêm thức trắng.
Như món “welcoming
cocktail” chào mừng lưu khách ở những khách sạn thượng thặng, ta sẽ cùng khai
hành bằng cả một bữa thịnh soạn vào đúng khoảnh khắc bắt đầu hành trình khám
phá, thứ “đêm trắng” rất riêng của Sài Gòn, thứ nhan sắc Nàng chỉ dành riêng
cho kẻ cận kề vào những canh khuya để chiêm ngưỡng, khi những kẻ bỏ cuộc sớm hơn
đã thiếp vào cơn ngủ sâu.
Không phải là một
night-life xa xỉ giả cách ở một hộp đêm na ná như những gì người ta có thể tìm
thấy từ Hương Cảng cho tới Nam Vang, hay con đường đi bộ chưa kịp hình thành ký
ức.
Hãy cùng tôi hưởng
đêm Sài Gòn bắt đầu bằng bữa khuya “welcoming meal” ở một tiệm mì Tàu, quán
cháo, hàng cơm khuất ngõ giáp ranh Sài Gòn – Chợ Lớn, Tân Định – Đakao nào đó,
ngắm những minh tinh thượng hạng của xứ phồn hoa tấp về đây cho chút an bình
sau ánh đèn sân khấu, ngồi lấp xấp xì xụp bên cạnh mấy bác tài xe khách chuẩn
bị lót dạ trước cuốc xe liên tỉnh xuyên đêm. Lắng nghe câu chuyện cuối ngày mệt
mỏi xen lẫn tiếng cười khanh khách vọng trong đêm của mấy cô vũ nữ sau giờ tan
vũ trường…
Tôi sẽ kể bạn nghe
những năm tháng từ rất lâu trước đó, những tiệm mì, quán cơm vô danh này đã
từng tồn tại từ trước ký ức thị dân. Chúng không có một ngày khai trương với
tưng bừng pháo nổ lân chầu, mà lẳng lặng xuất hiện từ bao đời không hay, thủy
chung tồn tại mỗi khi vị khách cũ sực nhớ chợt thèm món quen rỗi cẳng tạt qua,
hàng chục năm mà chủ tiệm vẫn réo tỉnh bơ “Như cũ, cô Hai?”, nhớ rành ý thói
khách từ cuống rau cải trụng tới dĩa ớt ngâm dấm cay xè đúng điệu.
Đôi khi, chính chủ
tiệm cũng không rõ ông bà, cha mẹ họ lần đầu đẩy xe mì, bày ghế cóc ở đây tự
bao giờ. Những nếp quán khuya không lịch sử, cũng chẳng bao giờ khơi nới xênh
xang thành cao lầu lộng kiếng mát hơi. Nhưng sẽ là những hụt hẫng vô ngôn nếu
một ngày tìm lại lối xưa, quán quen không còn ở đó.
Điều thú vị là mỗi
thị dân chánh hiệu đều có cho riêng mình những nếp quán về khuya quen thuộc, mà
ai cũng cam đoan sống chết rằng quán ruột của mình mới thực là “nhứt xứ”. Rồi
thị dân hào phóng tham lam mách nước, chỉ điểm cho nhau, làm phong phú thêm cái
điều sành sỏi thú ẩm thực về khuya để kết thúc, hay bắt đầu một đêm trắng Sài
Gòn.
Hoặc về Chợ Lớn ngắm
tranh kiếng tích Tàu trên xe mì. Cũng một xe ngon ngất ngưởng vậy nép mình
trong căn hẻm nhỏ xíu ở Tân Định, kế bên nhà thuốc, hoặc cuối hẻm xóm Hồi Phú
Nhuận, ăn xì xụp bên cạnh mấy ông anh bận đồ như người Chà và buồn bụng ra kiếm
tô bò viên.

Một xe mì Tàu ở Sài
Gòn với nhiều tranh kiếng tích xưa. Ảnh: Doi Kuro
Sang cả xông xênh thì
ta chưng cho bảnh rồi tạt vô Tân Hải Vân, Hoàng Long, A Bửu khét tiếng khu
trung tâm, ngó dân thượng lưu của đời sống “by night” điểm danh tụ hội. Giang
hồ bản xứ, thương nhân ta Tàu cặp nách mấy cô bồ trang điểm kỹ hơn đào kép sắm
tuồng, nghệ sĩ thượng thặng, dân “cựu Sài Gòn” ở xa về, cả mấy gia đình trung
lưu hiền lành quây quần quanh bàn dimsum sau khi vãn cuộc coi hát phòng trà…
Tôi sẽ tán dóc kể
nghe chơi vài vụ thanh toán danh bất hư truyền đã từng diễn ra ngay trên vỉa hè
này, lai lịch danh tánh vài vị thực khách ngồi quanh. “Little town little
people”, người ta có thể ngồi từ bàn này gật đầu vẫy gọi người quen từ bàn
khác, có khi nguyên đêm ngồi gật đầu chào hỏi tới sáng, miếng há cảo nguội ngắt
từ bao giờ.
Bằng không, cho thấm
thía đời sống thường nhật của người bản địa, hãy dẹp đi cái thói nhõng nhẽo
ngại sợ đồ ăn lạ, hãy theo tôi tới quán cháo khuya khu Tân Định, chỉ mở đúng từ
3 giờ sáng phục vụ dân bình dân ham chơi và người lao động chạy hàng sáng sớm.
Người thức khuya kẻ
dậy sớm cứ vậy san sát trong mịt mù khói ấm như một phiên chợ âm dương hàng đêm
vào cái giờ nhập nhoạng.
Những khuôn mặt vừa
thức dậy chuẩn bị cho một ngày lao động, cận kề những phấn son đã kịp rời rã
mỏi mệt vào cuối ngày. Mà món giò cháo quẩy ở đây bao giờ cũng nóng hổi giòn
rụm. Vài bước qua cầu chữ Y, biết đâu ta có thể cùng nhau đón bình minh ngày
mới ở quán cà phê “bít tất” đã nghiễm nhiên trở thành huyền thoại địa phương từ
hơn sáu chục năm đổ lại.
Không xa khỏi khu Tân
Định, nếu ưng chắc bụng hơn, hãy ghé thăm thú “địa danh” Cơm Tấm Ma, mới qua
khỏi Cầu Bông đã thấy đường chân trời mịt mù sương khói bởi chiêu vừa nướng vừa
quạt cật lực cho khói thơm phong kín một đoạn đường đổ về Bà Chiểu, mà nghe
truyền thuyết tiếu lâm về chiếc bảng hiệu cọc cạch đã bị xóa hay được thêm chữ
“i” sau chữ Ma để thành Cơm Tấm Mai. Hoặc vòng vèo về tuốt chợ Thủ Thiêm phía
mảnh ghép bên kia của thành phố cách một con sông.
Từ khi đôi tuyến phà
qua sông vắng bóng, lối về chợ đã không còn sầm uất như xưa, nhưng biết đâu, đã
lâu không về, nếp quán cơm khuya vô danh mà thấm thía vị ngon món nghèo, vừa
thưởng thức cái món nổi tiếng vừa để ăn khuya vừa là đồ ăn sáng, dòm hun hút vô
ngôi chợ xập xệ không bóng người như những xác nhà hoang, đèn đường dát vàng
loang lổ, nghe tiếng nhạc bolero phát ra từ xe kẹo kéo đầu đường, thấm thía vẻ
đẹp của mảng tối bên kia sông Sài Gòn.
Chỉ vài bước tản bộ
ra khỏi lối chợ, ta lại cùng nhau ngợp vào vầng sáng tân đô thị bên này sông,
khu quận 2 với những khu biệt thự trắng phau như bầy thiên nga trắng lốp ẩn
tịch giữa những khuôn viên sang trọng, sát vách với những mảng đồng hoang đã
khoanh vùng chờ ngày tuyệt diệt.

Một hẻm bán đồ ăn
khuya ở Sài Gòn. Ảnh: Thanh Hảo
Khoan đã, quý khách
sẽ hỏi liệu phải tôi đang định bắt đầu cho một tour du lịch ẩm thực của Sài
Gòn? Thưa không, ở Sài Gòn, miếng ăn hay nếp quán, thậm chí cả những tòa lầu,
chỉ là cái cớ. Mà câu chuyện làm gia vị chính là những con người và cái nếp
sống muôn mặt của thời điểm va chạm ngày-đêm, âm-dương, sang-hèn, động-tĩnh,
thậm chí, giữa ma và người (tụi tôi hay gọi vui dân thức khuya là “ma đêm”) mới
thực sự là chương mở của câu chuyện kể về Sài Gòn chỉ mới bắt đầu.
Hãy cùng tôi ngắm bức
đại cảnh thị dân bắt đầu từ khoảnh khắc giao thời thường nhật này, bên bữa ăn
lót dạ để kết thúc đêm của người này và bắt đầu ngày của kẻ khác.
Chuyện kể từ bên kia
sông…
Một khi đã qua tới
“phần bên kia” đô thị, mảnh ghép mới, vốn lam lũ hơn rất nhiều như bức tranh
lập thể sáng-tối của Sài Gòn, ta vẫn có thể len lỏi vô tàn dư khu xóm lao động
ổ chuột còn lại cuối cùng, bắt chiếc xe ôm ra nhà thờ “lồng đèn” ngồi ngó vọng
qua viên minh châu lấp lánh hào hoa bên kia sông, tưởng như hai cõi tách biệt
sẽ chẳng bao giờ chạm được tới nhau.
Tôi sẽ kể bạn nghe
chỉ đôi chốc nữa, rồi cái ánh sáng lung linh nọ sẽ choàng qua tới tận nơi ta
đang ngồi đây, về câu ngạn ngữ địa phương của ngày đáy sông rồi thành ruộng
dâu.
Ngó chếch qua kia,
một căn nhà ngồ ngộ màu trắng đứng đó một cách phi lý nhứt trên lịch sử kiến
trúc đô thị, vốn là tàn tích của khách sạn nổi một thời. Ngày nó cặp bến Bạch
Đằng đáng so sánh với ngày chiếc Titanic của giấc mộng văn minh lãng mạn nhổ
neo tới Tân Thế Giới, dân Sài Gòn đã đổ xô tới đó trầm trồ ra sao.
Suốt những năm thời
kỳ đầu “mở cửa”, sàn nhảy ở đây đã trở thành điểm ghé chân áp chót trong đêm
của tất thảy Việt kiều và ngoại kiều thế hệ “khai khẩn thị trường” đầu tiên, không
ít người trong số họ vẫn còn sống ở Sài Gòn từ bấy tới nay, mà cũng không ít
trong số đó đã trắng tay ngán ngẩm ngậm ngùi ra đi. Ngôi nhà kì cục đó chính là
lối cổng vào, lối hành lang trên bờ giờ còn đó chính là đường dẫn vô tiền sảnh.
Để tôi kể nghe có lần
chứng kiến một cô gái giang hồ sống bên này Thủ Thiêm qua bên đó chơi, đánh lộn
với mấy tay ngoại quốc say xỉn thế nào mà rớt một chiếc giày cổ rất quý, do một
người tình ngoại quốc tặng. Chiếc giày bị văng xuống dòng nước đen ngòm thủy
triều đang cao. Cổ nhảy ùm xuống làm cử tọa quây coi hết hồn, lặn như rái rồi
leo lên bờ kè đá với… chiếc giày còn lại trong tay, thiên hạ vỗ tay rầm trời,
lúc đó đâu như 2 giờ sáng. Thời đó những cuộc tình đa quốc gia còn là điều bị
kỳ thị, cô gái nọ giờ đã kết hôn, đương nhiên là không phải với anh chàng đã
tặng cổ đôi giày đó.
Tới hồi Khách sạn
nổi, cũng là khách sạn hạng 5 sao đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn hết hợp đồng
mướn bến, nhổ neo dời đi hồi nào chính tôi cũng không hay biết. Dân Sài Gòn nó
vậy, hồ hởi với cái sự mới, rồi gắn bó, quyến luyến, và lãng quên… Cứ như đàn
bà.

Khách sạn nổi năm sao
ngày còn neo đậu Bến Bạch Đằng. Ảnh: TL
Thôi, bỏ câu chuyện
này qua một bên, dẫu sao thì bây giờ tiêu chuẩn 5 sao đã đâu còn là sự lạ của
Sài Gòn thời nổ bom du lịch như giờ. Sự lạ ngày xưa nay đã chẳng phải là điều
kích động gì cho lắm.
Theo tôi, ta có thể
bắt xe ra tới một chiếc cầu rất lạ, nó dẫn vô một cánh đồng hoang làm ngõ cụt.
Tôi chẳng biết ai xây nó ở đây để làm chi và tự hồi nào. Chẳng có ai vô đây bao
giờ, cũng chẳng có cướp giật gì dù khu xóm tứ bề là khu ổ chuột nhưng toàn dân
lao động hiền lành. Chỉ thi thoảng ban chiều có người vô câu cá, vài cặp tình
nhân chống xe ngồi bắt hoàng hôn, còn giờ này ta ngồi ngắm ánh sáng đô thị từ
xa hoặc chờ bình minh thì tuyệt thú.
Bằng không, may mắn,
ta có thể hỏi tìm trong xóm, lối ra mấy chiếc cầu cây hay rùng mình dưới chân
người đi mà hỏi thăm, biết đâu còn mấy chiếc ghe nhỏ mướn được. Từ hồi xây
đường hầm xuyên sông, khai tử phà Thủ Thiêm thì bờ bên kia bến Bạch Đằng cũng
không còn cho cặp bến những thuyền chèo thuyền máy của dân bên này sông để chở
người, và bắt tour cho khách du lịch xuôi về Thanh Đa nữa.
Mấy công ty du lịch
hạng sang họ có ca-nô, thuyền máy ốp gỗ đẹp lắm, đi xông xênh ăn nhậu luôn trên
thuyền (có dịp sẽ kể bạn nghe về thú này sau, nếu hứng thú).
Một chuyến đi xuồng
dân thăm sông như vầy chỉ 1-2 trăm ngàn đồng, nhưng tiện như xích lô trên cạn
bởi tính “dân biểu”, tức dân biểu đi đâu thì đi. Nhưng từ dạo gần đây, dân bên
này bỏ nghề chèo đò vì đã có đường hầm. Nhưng tôi tin rồi ta sẽ tìm thấy một
chiếc xuồng nào đó còn kiên cường cầm cự để chở người trong xóm qua sông, rồi
rong ruổi bao xuồng, ta rẽ vô sâu hơn mạn tay mặt, tìm về phía heo hút hơn của
miệt Thủ Thiêm, coi những căn nhà gỗ mái tôn mái lá lúp xúp trên mặt nước, ánh
đèn bàn thờ đỏ quạch le lói nhún nhảy…
Đôi khi người ta thấy
như đang lạc giữa một scene của bộ phim Apocalypse Now…

Bến phà Thủ Thiêm
ngày chưa khai tử. Ảnh: Thanh Tùng
Nhanh chân lên, biết
đâu ta kịp trở dòng về sớm phía bờ bên kia để tiếp nối phần còn lại của hành
trình đêm trắng đầu tiên của Sài Gòn, cùng ngồi hóng chờ tiếng chuông nhà thờ
Trần Đình Xu từ những quán cóc khuya trên tàn dư ngôi chợ đầu mối một thời sầm
uất khu Cầu Muối, biết đâu tôi kịp kể bạn nghe dăm ba câu chuyện về những tay
giang hồ khét tiếng Sài Gòn từng xuất thân từ đây, vụ cháy hồi cuối năm ngoái ở
khu xóm chợ Gà-Gạo và câu chuyện tình tứ (tôi thay cho từ “tình nghĩa”) của dân
Sài Gòn quyết không để xóm nghèo gặp nạn giữa lòng Sài Gòn mà không ai đưa tay
giúp.
Rồi vui chân tôi dẫn
về đó mà coi khu xóm mới đã kịp dựng lại khang trang, vừa kịp chờ từ giã đêm
âm-dương bằng cái nhịp rộng ràng của thiện dân lao động khu Ta-Tàu này rập rình
họp chợ.
Hay xuôi về nhà thờ
chánh tòa ngắm bưu điện giờ mở cửa, vừa nghe câu chuyện của ông già bận sơ mi
hay rải thóc cho bồ câu, vừa chờ trông đức cha bận đồ lễ sang sảng tay cắp
thánh kinh băng qua công trường kịp giờ lễ sớm rồi thảnh thơi, lại thả bộ Đồng
Khởi ngang nơi trước kia từng là những Chi Lăng, quán Chùa, Givral, Brodard
lừng lẫy.
Quẹo vô cung lộ ngắn
có thể nhứt nhì thành phố, đường Nguyễn Thiệp, giờ đó đẹp như bất cứ góc nào ở
Tuscany để kịp ngắm những bông cẩm chướng tươi nhứt vừa kịp chưng trên bàn,
thưởng thức mùi thơm phức của những khoanh croissant mới ra lò, nhấm nháp ly cà
phê sữa đá và nghe những chuyện kể trầm luân của nơi mà tôi từng mệnh danh là
“quán cà phê của Kỷ Phục sinh”…
Nhược bằng đã kịp đói
bụng và háo hức với món đặc sản rất cliché nhưng chưa bao giờ cũ kỹ, ta tạt vô
quán phở Minh hẻm Casino, thưởng thức món bánh cam tráng miệng, đặng tôi kể cho
nghe về những sáng Chúa nhật thần thánh thời bao cấp với niềm vui con trẻ,
những báu châu ký ức mà chỉ tôi, kẻ thị dân hãnh diện này của Sài Gòn mới có.
Chờ cho nắng lên cao,
tới đây là chặng nghỉ ngơi đầu tiên. Hãy lui về khách sạn, kịp cho những kí ức
chỉ mới hình thành kịp lên da non và lắng vào, thấm tháp mà hình thành lớp trầm
tích kí ức đô thị đầu tiên, của riêng bạn.
Người ta hay hỏi tôi,
khá cắc cớ, rằng Sài Gòn toàn dân tứ xứ, biết đâu là dân Sài Gòn thứ thiệt, hay
Sài Gòn “gốc”.
Thiệt ra, gốc với gác
có chăng là những thứ bắt rễ vô tiềm thức. Có kỷ niệm đời sống ở đây, cho phép
kỷ niệm đó ngấm sâu thành hồi ức, mối dây trừu tượng mong manh mà quyến luyến
lắm, thứ để dành để thương khi ở, nhớ khi xa, hiếu kỳ khi gặp lại, là đã thành
“dân Sài Gòn”.
Cả bạn nữa, du khách,
cũng có thể là những người của Sài Gòn thực thụ, một khi sở hữu riêng cho mình
những lớp trầm tích ăn sâu vào nếp đời mà thành tập quán, tập quán như đường
mòn đi lại nhiều mà thành, đó chính là hồi ức để dành về sau, như người Mỹ hay
nói là “get your way around” vậy.
Hành trình trở thành
“dân Sài Gòn” của du khách cũng chỉ mới bắt đầu, với lớp trầm tích mỏng manh
đầu tiên đang được hình thành về kỷ niệm đêm trắng ở xứ Ngọc Viễn Đông, ghi dấu
không chỉ lớp phấn sáp kim cổ kì cục của Nàng, mà trong đó, sẽ có cả những cọ
xát “sương sương” với những thường dân và cuộc đời bản địa “thứ thiệt”. Những
khuôn mặt, giọng nói đa chủng và thứ món ăn ngộ nghĩnh của họ đó, giờ đã thành
kỷ niệm, đã được toàn hữu, tưng tiu như một phần hồi ức riêng tư – thứ quà lưu
niệm vô giá sau mỗi cuộc ngao du.
Chặng hành trình đầu
tiên vừa kịp kết thúc trước khi cơn nắng dữ dội nhất kịp biến đại lộ Nguyễn Huệ
thành cái chảo xi măng phi nghĩa.
Hãy về, cho những vết
khắc lấp lánh của đêm trắng kịp dịu dàng kéo da non, chào mừng bạn đến Sài Gòn!
Trác
Thúy Miêu