Ảnh: facebook.com/trac.lengoc
Cổ lai chính chiến kỷ nhân hồi? (Vương Hàn)
Bây giờ, trừ cái laptop, tôi rất ít để ý đến những vật dụng khác
quanh mình. Sau tháng 4 năm 1975 – có lúc – tôi cũng không bận tâm đến
bất cứ một thứ gì, ngoài cái lon Guigoz.
Tôi bắt đầu làm quen với nó vào mùa mưa năm 1975, trong trại cải tạo.
Chịu đói là bài học đầu tiên mà chúng tôi được học, và đây cũng là bài học
kéo dài suốt khóa.
Ở vào hoàn cảnh này mà vớ được mấy củ khoai đào sót, một con ếch
chậm chân, một nắm rau rừng cấu vội, hay một vốc gạo thừa – vét được sau
những lần tạp dịch dọn kho – mà có sẵn cái lon Guigoz bên mình thì tiện
lắm. Cất dấu tang vật rất dễ, và chỉ cần rất ít nhiên liệu trong việc
nấu nướng.
Hằng đêm chúng tôi đều được nghe giảng dậy về một cuộc sống mới
không giai cấp, không còn cảnh người bóc lột người, mọi sản phẩm đều là
của chung, làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu… Chúng tôi cũng
được động viên cứ yên tâm học tập, không phải bận tâm gì về thân nhân
hay gia quyến. Cả nước đang đi từ giai đoạn ăn no mặc ấm, sang ăn sang mặc
đẹp. Còn cả thế giới thì đang chuẩn bị bước vào thế giới đại đồng.
Chúng tôi tiếp thu tốt, thảo luận tốt, viết thu hoạch tốt, nhất
trí rất cao về tất cả mọi vấn đề. Sau đó – sau giờ học tập – mọi
người lại lục đục mang tất cả những thứ “cải thiện” được trong ngày, bỏ vào
lon Guigoz, lúi húi tìm một góc riêng đun nấu, để “sột sệt” cho đỡ
đói.
Cái lon Guigoz đối với chúng tôi (những kẻ thuộc bên thua cuộc)
không chỉ là một vật dụng thiết thân mà còn trở thành một kỷ vật,
với những kỷ niệm rất buồn. Điều tôi không ngờ là nó cũng rất thân
thiết, và cũng là một kỷ vật buồn (không kém) đối với những người
thuộc bên thắng cuộc:
Nhớ thằng bạn cùng đơn vị xưa kia kể lại, bà mẹ của cậu ta cứ nắc nỏm ao
ước tìm đâu ra một chiếc hộp sắt để đựng kim chỉ khâu hay đựng thuốc cảm cúm, nhức
đầu… Tìm đâu ra vài chiếc bình, chiếc chai thật đẹp để tích lạc, đựng vừng
phòng ngày mưa gió, lụt lội. Vừa khô ráo, vừa tiện lợi, bày biện chỗ nào cũng
sáng cả một góc nhà. Bà mẹ tơ tưởng vậy thôi, chứ đang thời bom rơi đạn nổ, mọi
người chỉ sống nhờ vào mấy chiếc tem đậu phụ, tem thịt, vào những viên gạch xếp
hàng giữ chỗ thay người trước một xe bán rau, trước cửa hàng bán nước mắm mậu
dịch…, bới đâu ra chiếc hộp, chiếc chai bà ưng ý?
Ấy vậy mà hôm tiễn thằng bạn tôi vào chiến trường, không hiểu bằng cách
nào, bà mẹ đã tìm được chiếc vỏ hộp sữa Guigoz đặt vào một bên túi cóc của cậu
con trai. Nhờ cái vỏ hộp sữa ấy – chống được ẩm mốc, mưa nắng – cái ba lô lính
của thằng bạn tôi thực sự trở thành một cái chạn di động. Không gặp thì chớ, hễ
gặp nhau y như rằng nó sẵn sàng khoản đãi tôi đủ thứ “cao lương mỹ vị”: thịt
nai sấy khô, mắm ruốc cá, thịt cheo sào gừng, sả… Tất cả chứa trong chiếc hộp
sữa Guigoz đó!
Bạn tôi hy sinh ở Bàu Bàng cuối năm 1969. Nhận được giấy báo tử người
con trai đâu đó chín tháng hay một năm, bà mẹ ngã bệnh qua đời. Mãi hơn hai
mươi năm sau, những đội viên Hội Chữ thập Đỏ phường Mã Mây mới tìm ra nơi chôn
cất thằng bạn tôi. Họ kể lại, di vật của người hy sinh đã ẩm mục, rã rữa hết,
chỉ còn tìm được chiếc vỏ hộp sữa Guigoz. Hôm đưa hài cốt bạn tôi về với bà mẹ
cậu ta ở một khu phố cổ Hà Nội, người ta đã đặt chiếc vỏ hộp sữa bên cạnh bó
hài cốt bạn tôi trước bàn thờ bà mẹ. Đủ lệ bộ ngay ngắn, họ mới thắp hương báo
với bà con trai bà đã về. (“Nỗi Buồn Lâu Qua” – Tô Hoàng).
Ngày trở về của chiếc nón cối thì ồn ào, và hoành tráng hơn
nhiều:
Năm 1968, người lính trẻ Hoa Kỳ là John Wast, khi lục soát trận địa tìm
vũ khí, tài liệu, bất chợt trông thấy một chiếc nón cối có vết đạn, vẽ hình con
chim bồ câu. Anh ta buộc chiếc nón vô ba-lô, và khi hồi hương vào năm tháng sau
đó, anh ta mang theo làm kỷ niệm chiến tranh và đặt trên cái giá sách trong
phòng.
Có một cựu chiến binh làm công tác từ thiện đến gặp anh lính cũ và hỏi
anh ta có muốn trả lại chiếc nón về nơi cũ chăng, bởi vì năm tháng qua đi, cũng
chẳng còn khơi lại những đau thương nhức nhối nữa. Một phái đoàn có tên là
“Đoàn phát triển kinh phí thiện nguyện tại Việt Nam” tìm ra gia đình anh bộ đội
Bùi Đức Hùng, bị tử thương, nhưng hài cốt không bao giờ được thu hồi.
Vào ngày Thứ Ba, bốn cựu chiến binh Hoa Kỳ mang hoàn trả chiếc nón cối
cho gia đình anh Hùng qua một nghi lễ tại một ngôi làng cách Hà Nội 70 cây số;
với nghĩa cử đề cao nhu cầu hòa bình và hòa giải.
Ảnh: AP
Ông Bùi Đức Dục, 52 tuổi, là cháu của liệt sĩ Hùng phát biểu, “Đây thật
là giây phút thiêng liêng đối với gia quyến chúng tôi.”
Ông Dục bật khóc khi chiến nón cối được mang đặt lên bàn thờ gia tộc,
trước sự chiêm bái của những cựu chiến binh Hoa Kỳ, khoảng 100 dân làng và viên
chức xã có mặt. Trong căn phòng cũng đặt một bức tượng ông Hồ Chí Minh, người
đã lãnh đạo cuộc chiến tranh thắng lợi.
Ảnh: AP
Ông Dục ngỏ lời “Chúng tôi coi chiếc mũ này như chính một phần thân thể
chú tôi, và sẽ bảo tồn nó để nhắc nhở cho thế hệ tiếp nối của gia tộc chúng
tôi.” Hơn ba triệu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh qua thời gian Hoa
Kỳ phải hành động để ngăn chặn làn sóng Cộng Sản tại Đông Nam Á. Ông Wast, nay
đã 67 tuổi, là người dân vùng Toledo, bang Ohio, chưa từng du lịch Việt Nam.
Lời nói của ông ta đã ghi và phát lại qua buổi lễ cho biết rằng liệt sĩ Hùng đã
chiến đấu thành thạo và ngoan cường… (“46 years on, Vietnamese helmet returned.” Tran Van Minh.
AP. Trans Y.Y).
Trường hợp của ông Nguyễn Chánh Nhường thì hơi khác, theo bản tin
(“Sau 40 năm, liệt sỹ trở về thành hộ nghèo”) của báo Lao Động, số ra ngày 1 tháng 2 năm 2015:
Một sự kiện hy hữu vừa diễn ra tại xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ
An) khi ông Nguyễn Chánh Nhường, đã có giấy báo tử và được công nhận Liệt sỹ
tròn 40 năm bỗng trở về trước sự ngỡ ngàng của người thân và bà con xóm giềng.
Ông Nhường hiện trí nhớ suy giảm, sức khỏe yếu được chính quyền địa phương xếp
vào diện hộ nghèo.
Vào ngày 10.4.2014, gia đình ông Nguyễn Chánh An, xóm 19 xã Quỳnh Lâm
hết sức ngỡ ngàng khi thấy một người đàn ông ăn mặc rách rưới, dáng vẻ tiều
tụy, khắc khổ xuất hiện trước cửa nhà. Sau phút định thần, gia đình ông An bàng
hoàng nhận ra đây là ông Nguyễn Chánh Nhường, người anh em ruột của gia đình,
đi bộ đội và được báo tử, truy điệu Liệt sỹ vào năm 1974, vừa tròn 40 năm.
Ông Nguyễn Chánh Nhường sinh năm 1949, quê quán xã Quỳnh Lâm, lớn lên
theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông xung phong lên đường nhập ngũ. Sau
một thời gian bặt tin tức, vào năm 1974, cả gia đình ông chết lặng khi nhận
được giấy báo tử của đơn vị gửi về, thông báo ông đã hi sinh ngày 6.4.1973. Địa
phương và các tổ chức đoàn thể đến thăm hỏi, động viên gia đình và tổ chức lễ
truy điệu. Gia đình ông được phát bằng Tổ quốc ghi công số DE 145, được lưu giữ
trang trọng tại nhà ông anh cả Nguyễn Chánh Nghiệm…
“Liệt sỹ” Nguyễn Chánh Nhường trở về sau 40 năm báo tử.
Ảnh và chú thích: Lao Động
Bà Bùi Thị Hường, Phó Chủ tịch UBND xã Quỳnh Lâm cho biết: “Sau khi nghe
tin có ông Nhường trở về, chúng tôi đã thành lập đoàn xác minh thông tin. Kết
quả cho thấy người trở về chính là ông Nguyễn Chánh Nhường, đã được công nhận
Liệt sỹ cách đây 40 năm. Ông Nhường không có giấy tờ gì, trí nhớ cũng không còn
minh mẫn, ngay cả nói cũng không mạch lạc…
Bà Hường nói:“Chúng tôi chưa thăm, tặng quà ông Nhường, nhưng đã có kế
hoạch tặng quà và đề xuất UBND huyện tặng quà cho ông trong dịp Tết Nguyên đán
Ất Mùi. Đây là một trường hợp hết sức hi hữu, mong rằng các cơ quan chức năng
sẽ xem xét giải quyết chế độ phù hợp cho một người đã từng đi bộ đội, tham gia
chiến đấu và được công nhận là Liệt sỹ.”
Ông Nhường trở về ngày 18 tháng 3 năm 2014, gần một năm sau (hôm 1
tháng 2 năm 2015) bà Phó Chủ Tịch UBND xã Quỳnh Lâm tuy vẫn chưa đến thăm
nhưng đã có “kế hoạch” và “đề xuất UBND huyện tặng quà” rồi. Chả biết
“đề xuất” này có được chấp thuận hay không nhưng (“tiếng chào cao hơn
mâm cỗ”) thế cũng qúi hoá lắm rồi.
Nếu ông Nguyễn Chánh Nhường đi luôn, và chỉ có cái lon Guigoz hay
chiếc nón cối trở về (thôi) thì việc tiếp đón – chắc chắn – sẽ long
trọng và đình đám hơn nhiều. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Đã đi chinh chiến mà còn (ráng) trở về làm chi nữa, cho nó thêm rách
việc!
Tưởng Năng Tiến