Bài phỏng-vấn cố Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu của tuần báo Đức
Der Spiegel (Tấm Gương, Tấm Kiếng), số 50 năm 1979, do nhà văn Phạm Thị Hoài ở
Đức dịch sang tiếng Việt. Bản chánh, tiếng Đức, đọc được ở link:
http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-39685817.html
Tuần báo Der Spiegel là tờ báo có uy-tín và có số đọc giả lớn
nhất ở Đức, mỗi tuần phát-hành trên một triệu bản.
----------------------------------------------------------------
Cuối năm 1979, Cựu Tổng
thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, người ít khi lên tiếng từ khi sống
lưu vong sau tháng Tư 1975, đã dành cho tạp chí Spiegel của Đức một cuộc phỏng
vấn dài về kết cục của Chiến tranh Việt Nam.
Nguyễn Văn Thiệu và Henry Kissinger
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời
phỏng vấn của Spiegel 1979
Phạm Thị Hoài (dịch)
Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến
1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của
mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang
để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm
đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn
nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái tim Hoa Kỳ". Vì
sao ông lại cản trở như vậy?
Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không
có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một
nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất.
Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống
Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước
tôi.
Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một
cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một
quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó
là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy
cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với
các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.
Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo
dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba
tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến
dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều
chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài.
Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận
về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông.
Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn
sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được
ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao
giờ phải ngửa bài lên?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao
nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến
thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục
đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng
chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện.
Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.
Nguyễn Văn Thiệu và Richard Nixon tại cuộc họp ở Midway 1969
Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước
cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái
Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?
Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở
Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho
phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan
khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả
bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.
Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình
hình?
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở
Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen
và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những
toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế.
Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm.
Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân,
ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ
chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy
quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.
Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó
không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của
Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc
rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc
hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi
việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi
đầu của việc rút quân toàn bộ?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình
dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ
tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng
thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả
năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép –
tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng
trên đôi chân của mình.
Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải
yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi
điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía...
Spiegel: ... và mang tính tượng
trưng?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc
chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải
thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó
một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và
Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống
Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi
cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản.
Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội
Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn.
Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.
Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc
và Tây Đức mà.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một
dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ,
nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu.
Spiegel: Ông đánh giá thế nào về
tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin
Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến tranh". Trước
đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc chiến. Cái khái niệm
mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?
Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào
tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư
luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc
rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ
nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo:
"Hãy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng
tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng
bước.
Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch
trình cụ thể?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại
hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của
Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải
phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận
ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?
Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng
lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải.
Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ
dàng "đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng
minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang
một kênh TV khác."
Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi
Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn
đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương
lượng giữa Washington và Hà Nội không?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy
chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ
xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.
Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp
đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn
được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện
diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải
rút quân.
Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ
tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề
phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối
hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở
lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy
cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của
Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế.
Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo
vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút
quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không
có ký kết.
Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối
cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì
tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp
nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên
Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.
Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm
khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một
thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu
hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt
đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng
nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực
chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.
Spiegel: Ông có lập luận như thế với
Kissinger không?
Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả
Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng.
Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng
tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô
vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định
hòa bình với Liên Xô không?"
Spiegel: Ông ấy trả lời sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời
được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.
Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu
trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn
toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến
trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản
không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực lượng miền Bắc sẽ
tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất."
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ
và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán
với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản
Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc
đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với
cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.
Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng,
vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà
thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền
Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?
Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất
trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu
nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là
đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc
Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà
tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì
họ ở lại miền Nam làm gì?
Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa?
Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm
càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn
một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người.
Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng
tôi. Đó là thế kẹt của họ.
Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay
sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột
nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn
thắng.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa!
Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào
miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi
chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao
giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi
hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở
Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?
Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền
Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó,
trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi
ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước,
mà ông còn chấp thuận.
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc
họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút.
Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật
mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn
họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện
nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân
vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới
và đặt tôi trước sự đã rồi.
Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đòi quá nhiều,
ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ
được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn
cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông mà chống
thì sẽ bị cắt viện trợ."
Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức
nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước.
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để
nghe tôi nói "Không", nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích
của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.
Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971.
Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện
trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai?
Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực
hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì
chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên
quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại
Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.
Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ
Lào?
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ
phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài.
Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực
thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại
Lào.
Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không
quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân.
Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo
binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi
công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần
thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.
Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra
ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị
ảnh hưởng.
Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ
huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn
thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không
đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là
điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng.
Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có
thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ.
Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì?
Spiegel: Tức là ông đã thông báo cho họ?
Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ
Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào
càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi
chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy
được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu
biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong
chiến dịch này.
Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn
đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ
đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến
hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất
này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu
tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi
xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo,
chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn
trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả
sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.
Spiegel: Kissinger viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và
Thiệu cùng đồng hành hợp tác." Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những
"chiến thuật né tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người
ngoại quốc" ra dùng.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng
minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao
giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó.
Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền
Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết
từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả
khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt.
Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon
rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.
Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự
và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ
lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt
thôn tính.
Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết
rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước
bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam.
Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng
thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách
nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn
quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh
báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ
dần chấm dứt.
Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành
công?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.
Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?
Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng
tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi
đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói,
mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.
Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá
nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ
nhục nhất. Tuy đánh giá cao "trí tuệ", "sự can đảm",
"nền tảng văn hóa" của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ
vô liêm sỉ", "xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và
"chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng
xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất
lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực".
Ý kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về
ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn
nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
Spiegel: Hay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng
coi thường như thế?
Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh
và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức
huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại
địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng.
Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng
bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi,
gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan
chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông
Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.
Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi
trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế
thấp hơn.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi
ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể
lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn
vậy.
Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ;
ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì
Nixon đã gọi ông là "đồ chó đẻ" (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho
biết "thế nào là tàn bạo".
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời
khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp.
Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi
chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt
tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu
chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ,
và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội
của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến
Quốc hội.
Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát
từ "lòng oán hận độc địa".
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là
đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần
yêu nước của tôi.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh
bất khả kháng" của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó
không?
Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là
áp lực từ phía chính phủ Mỹ.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận
về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu "theo kiểu Việt Nam:
gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn
là làm sáng tỏ vấn đề", rằng ông "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ
nói đúng vào trọng tâm câu chuyện".
Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp
nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông
báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn
thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa
mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi.
Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội
vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được
chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc
với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.
Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội
cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước
hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra
cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở
lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.
Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng
tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định
hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết
bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi
đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện
ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng
Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics
College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu
và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng
đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh
mà như thế thì có chân thành và trung thực không?
Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra
Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút
quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger
bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của
chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải
như vậy.
Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể
hãnh diện là đã thoát ra được bằng một "thỏa thuận danh dự". Để họ có
thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo
việc phóng thích tù binh Mỹ." Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng:
"Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do
người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính
phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải
pháp danh dự."
Spiegel: Kissinger viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ
trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh."
Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông
Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định
hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế
là đã biện hộ cho ác quỷ.
Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều
mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger
viết rằng: "Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc
tính của người Việt."
Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của
ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính
khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ
ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi
Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế,
không bây giờ và không bao giờ.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm
dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau
khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số
thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền
Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu
ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng
tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn
vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục
hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng
tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất
là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra
cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy
đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.
Spiegel: Xin cảm
ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.