Tối đó, tôi dẫn Đại
đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có
cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền nhiệm,cũng là khóa đàn anh
của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.
Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới tò te ra trường, giờ đã lên
nắm Đai đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các
binh chủng khác như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến..., có lẽ họ vẫn còn đang thực
tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm Đại đội hơi nhanh
không phải vì mình tài giỏi gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn
đi Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại
đội xử lý là một Chuẩn úy, gọi là xử lý cũng không đúng vì trong cấp số coi Đại
đội thì tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ
quan quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt
mới ra trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46
thì một ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ
Trang, khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam vì dính dáng tới vụ Phật
Giáo, ngoài đó ông đã là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay
quắt vì việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng
như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí tình trong việc chỉ bảo
cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng còn quá mới, quân trường
dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.
Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống
trung đội để thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đã tàm tàm gọi là đủ lông, đủ
cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho
tôi, trước đó, ông đã thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi Đ.Đ được danh
chính ngôn thuận.
Nói về tối đầu tiên tôi dẫn Đ.Đ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm
cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi
thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, thường
vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi còn học Tiểu học:
- Ai vậy ông Hội, sao có đàn
bà lẫn lộn vào đây?
- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng
Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu rồi, hồi còn Trung úy Trang, ông cũng
cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống với chồng nó.
- Tôi thấy không được rồi đó
ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công thì làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ nó thì còn
đánh đấm gì được..
- Thiếu uý đừng lo, vợ nó phụ
nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu
úy coi, hễ rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.
- Nhưng lỡ có chuyện gì làm
sao mình báo cáo.
Hôm sau tôi gọi Nở lên trình diện:
- Sao cậu không để cho vợ cậu ở
nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ có chuyện gì thì sao?
- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ
côi từ nhỏ, không có nhà, em đã đưa nó về với má em rồi nhưng má em không ưng
nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.
Nở thực hiện lời "em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi
chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ
ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải,
lỡ có chuyện gì thì làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận với nhau chứ.
Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có
dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa
bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ thì
Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem còn ai không biết chữ gom
tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua
tập vở về dậy họ học,"ngày mãn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến
sĩ Cộng Hòa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết
chữ từ ngày đó.
Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà
quen trong xã, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.
Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:
Long Xuyên,
ngày...
Anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới
dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi
mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ chồng được gần
nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy
như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn
hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo
anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả
lời em nghe.
Em, Ba.
Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng quân,
tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân,
không biết anh Hai có trả lời, trả vốn gì không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy
chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc có thể biết tôi đã thấy
nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ
đồ trận rộng thùng thình, đầu còn đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt
tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh
người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin gì cả, chẳng thà để tôi lờ đi như
không biết còn hơn là hợp thức hóa cho khó xử.
Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau vùng
trách nhiệm họat động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ,
đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhẩy trực thăng và xa hơn. Ba
Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà (ĐĐ1),
Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.
Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng
về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khoảng 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với
Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng đóng quân ở đây, chắc
chắn là địch tấn công từ ngã rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên vì
tình người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng vì không
liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn,, tôi chạy lại cây đại
liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc,
tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp cò, nhả
từng loạt đạn về hướng địch.
Như tôi đã nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục
tên, đợi mình ơ hờ, liều lĩnh tấn công.Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau,
ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng vì địch tụ ở đâu
về, ém quân trong đám dừa lá dầy đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập
trung ở đây, đợi đêm xuông có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Hòa, Đức Huệ rồi
qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.
Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống,
suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị
thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném
bom còn là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn
là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng
có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một mình vác cây đại liên cả với
chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào
lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch còn lo núp. Khi đã rất gần mục tiêu và có gò
đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng
loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực
thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một
số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể gì so với sau này khi SĐ 25 rời
Long An di chuyển về vùng trách nhiêm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên
năm 1970 cũng như ở Bình Long mùa hè đỏ lửa thì chiến trận lên tới cấp Sư đoàn,
Quân đoàn.
Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn
huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng Tướng Chinh
là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ
được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương
vàng của các nơi khác(!)
Hai ngày sau ĐĐ còn được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán
đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy
tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có
quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ
đình Hà.
Đầu năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa Tác chiến trong rừng ở Mã Lai, tôi
còn gắn bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa ĐĐ thì
vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn thối
lui nhưng không kịp, chị ta làm gạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím
môi lại và dơ tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ,
tôi chào lại, chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao mình lại chào nhỉ, hóa
ra ĐĐ này có một nữ quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi
nên khi gặp, chị cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy
hình như bụng vợ Nở có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội thì ông ta
bảo: có vẻ như vậy Trung úy. Tôi gọi Nở lê
- Vợ cậu có bầu phải không?
- Dạ, thưa Trung úy
- Vậy thì cậu phải đưa cô ta về với bà
già đi chứ, bầu bì rồi đi theo ĐĐ mãi sao được, phải lo sức khỏe cho cô
ta - Dạ, em cũng tính tháng này
lãnh lương xong, Trung úy cho em cái phép để em đưa nó về gởi bà già
- Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây.
Hai ngày sau, Đại Đội được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục
kich ở sau lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC
nơi đây, tối đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai
tên bị bắn hạ, số còn lại nhập qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục
kích nổ súng trước nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ý
tấn công nên sau một hồi, chúng rút lui, hình như có chuyện gì xẩy ra ở cây đại
liên vì tôi thấy nó nổ được một chập thì im bặt, tôi đảo nhanh vòng quanh tuyến
phòng thủ, không có tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy
người lố nhố, linh tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:
- Gì vậy Nở?
Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay
hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:
- Vợ em nó chết rồi
Trung úy ơi!
Tôi ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ
đứng lên:
- Chết rồi Trung úy.
Tiếng thằng Năm trong toán đại liên:
- Súng bị kẹt đạn, thằng
Nở kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống
nhưng không kịp Trung úy.
Tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái chết nhưng lần này
tôi thật xúc động. Thôi, chị Nở, từ nay chị hết cần phải tránh né tôi nữa rồi,
sao tôi lại không cứng rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng tình cờ đọc được lá
thư chị viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải cứng rắn hơn, nhất định không cho
chị đi theo ĐĐ như vậy.
Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ chồng
Nở, ông cho Sĩ quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một cái xe Dodge để đưa vợ
về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa cho Nở, buổi
trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi ngang qua
ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đã chào tôi, chị chết đi mà cái hòm
không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, không cả được lên cấp chỉ vì
chị là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN.
Mười ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học, Nở
đào ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ
đóng quân mà không có vợ bên cạnh.
Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị mất, hôm
nay tôi ngồi viết lại chuyện này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi
đọc loáng thoáng đâu đó người ta nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân
miền Nam trong công cuộc chống CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một
người không phải là quân, cũng không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị
lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu như một người lính thực thụ và đã hy sinh.
Một lý do nữa để tôi viết về chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt Nam đã làm ầm ĩ
lên câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết
ở chiến trường Quảng Ngãi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương
khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được
cuốn nhật ký của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một kỷ niệm chiến tranh
của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh
sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.
Nhà nước CSVN chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật ký, dĩ nhiên với nhiều
thêm thắt để khơi động lòng yêu nước của đám thanh niên càng ngày càng rời xa
chủ nghĩa CS.. Đặng thùy Trâm là một Bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành
tử tế để thành một Bác sĩ không, tôi đã đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc
là có một anh công nhân được tặng danh hiệu anh hùng lao động vì đã phục vụ 15
năm trong phòng bào chế thuốc, và vì phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được
thăng lên làm dược sĩ vì quen với công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta
mới đi học bổ túc văn hóa vì anh ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy,
tôi không biết Bác sĩ Thùy Trâm này trình độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội
mình năm xưa không, hay cũng như mấy bà mụ vườn ở nhà quê.
Thưa chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến
tuyến chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như
nhau, nhưng hai cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau, Thùy Trâm bị bắt buộc và tự
đi tìm cái chết, còn chị, chị bị chết vì người ta ở mãi đâu vô đây tìm để giết
chị, chị chỉ là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai
tuyên truyền với chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ
nghĩa để chém giết người khác, chị rất đôn hậu, còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ
ngoài đó vào đây, mang trong lòng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền
Nam này nào có cần ai phải giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau này, người miền
Nam vẫn khẳng định rằng họ không cần ai giải phóng cả.
Chị Nở có thấy điều buồn cười này không là trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm viết
là sao quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không
hay người ta vào đây tìm giết chị, từ ngoài đó lần mò vào tận trong này để tìm
giết người ta lại còn hô hoán là sao người ta thích chém giết mình, thật kỳ lạ.
Cũng trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đã lâu nhưng chưa được
kết nạp đảng, đây cũng là lý do vì sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để
chỉ mong được đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm gì
không, thưa là để có cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn
thì mới có quyền và có tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi
nhau vơ vét tiền bạc của người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mỵ dân, chúng
đem những người giầu có ra đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ thì ai đấu tố chúng?
Thùy Trâm này nếu mà không chết và giả như có ô dù, giờ có thể là Bộ trưởng Y tế
hay làm Giám đốc một bệnh viện nào đó thì cũng là những con giòi, con bọ đang
tham gia đục khoét thân thể Việt Nam.
Cũng là cái chết nhưng chị chết trong vòng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp,
có nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ
ở chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm hình cô ấy mà thôi.
Bốn mươi năm đã qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi
chị Nở ạ, ông Thiếu úy trẻ năm xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước
và đang phiêu bạt nơi xứ người, Thượng sĩ Hội đã mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi
không gặp lại, chắc đã có vợ khác, xin được tạ lỗi cùng chị là đã không giữ được
đất nước để rơi vào tay quân thù, thật không xứng đáng với sự hy sinh của chị,
chúng tôi làm mất nước không phải vì hèn kém, không chiến đấu, mất nước vì bị
phải mất nước. Quên kể cho chị nghe,mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối
tân hóa, những cây Garant cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, còn cây đại liên 30
nặng chình chịc chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh
hơn và không hay bị kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đã qua, chúng tôi vẫn
không bao giờ quên những người đã hy sinh vì mảnh đất miền Nam thân yêu, không
bao giờ quên được những gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống
lại quân Bắc phương xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được
thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.
Trần Như Xuyên