Tác giả ghi lại những gì diễn ra trước mắt mình, ngay trước
nhà mình, ngay trong khu phố mình sống, những giờ phút cuối cùng của miền Nam.
Ngày ấy, tác giả vừa tròn 15 tuổi.
Viết cho ngày 30 Tháng Tư năm ấy.
Viết cho những người lính cấp bậc nhỏ, nhưng hy sinh lớn.
Viết cho những người lính vô danh,
Vị quốc vong thân lúc thành mất nước tan.
Ai cũng sống cả một đời, nhưng chết chỉ một lần.
Các anh, những người lính nhỏ,
Suốt 40 năm qua, tôi đã đọc, đã nghe và cũng đã xem nhiều về những hy sinh của
các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hòa khi nước mất nhà tan vào tay
Cộng Sản trong ngày 30 Tháng Tư đau buồn của năm 1975. Lúc ấy tôi được 15 tuổi,
chưa trưởng thành, chưa đủ khôn và đủ hiểu biết chuyện đời, nhất là chuyện thời
cuộc. Ở tuổi này, tuy chưa đủ lớn, ký ức mình cũng đủ “già dặn” để không quên
điều xảy ra. Và trong ý nghĩ đó, có một câu chuyện cho đến giây phút này vẫn
còn in đậm trong ký ức của tôi.
Mấy mươi năm qua, tôi cho đó là “chuyện nhỏ.” Sau này, tôi chợt nhận thức, rằng
chuyện nhỏ này lại có ý nghĩa vô cùng to lớn mà hôm nay tôi muốn ghi lại và
chia sẻ với những ai quý tự do, yêu độc lập và chuộng
hòa bình.
Lúc ấy là 09 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975!
Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá
đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy
người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm
tháng của Dì Mười, khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh
dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo
tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi…
Thời khắc ấy cách đây đúng 40 năm, trong cảnh hỗn mang của ngày tàn cuộc chiến,
trong xóm tôi ở Ngã Năm Bình Hòa-Gia Ðịnh, bỗng xuất hiện bốn năm người lính Nhảy
Dù. Họ chạy lúp xúp men theo vách tường nhà Dì Sáu của tôi rồi dừng lại trước
nhà tôi. Tất cả đều còn rất trẻ và người họ mang đầy súng ống đạn dược. Áo quần
họ bám đầy bụi đỏ. Chỉ cần nhìn thoáng qua, ai cũng biết những người lính này mấy
ngày trước đây đã từng xông pha trận mạc. Họ đứng trước khoảng đất trống, ngó
dáo dác một đỗi, thì người lính có mang một bông mai trên cổ áo nói, như ra lệnh:
- Anh em đào ở đây đi.
- Tuân lệnh thiếu úy!
Một người trong họ trả lời. Thế là các anh tháo gỡ trên vai xuống mấy cái xẻng
cá nhân. Với thao tác nhanh lẹ, phút chốc họ đã biến chúng thành những cái cuốc
và bắt đầu đào hố cá nhân.
Trong nhà, má tôi lo lắng ra mặt. Bà đang phân vân chẳng biết có nên di tản
không và nếu đi thì chưa biết phải đi đâu. Bất ngờ, bây giờ thấy lính tráng chuẩn
bị hầm hố chiến đấu trước cửa nhà, bà thêm hoảng sợ.
Tuổi thiếu niên đang lớn, hiếu kỳ, tôi tò mò bước ra sân, tiến gần đến khoảng đất
trống ngồi chồm hổm xem mấy người lính làm việc. Lâu lâu có tiếng đại bác vọng
về, tiếng súng bắn lẻ tẻ vang lên đây đó làm cho bầu không khí chết chóc thêm
ngột ngạt, hình ảnh chiến tranh thêm rõ nét.
Dân trong xóm tôi nhốn nháo chạy tới chạy lui, mặt mày ai nấy đều lấm la lấm
lét khi đi ngang qua nơi mấy người lính đang làm việc. Bộ mặt của thành phố Sài
Gòn lúc đó như người bệnh nặng sắp mất.
Ðộ chừng nửa tiếng sau, khi hố được đào khá sâu, một người lính đứng lên, mồ
hôi nhễ nhại trên mặt. Anh đưa cánh tay lên cao, quẹt lấy mớ tóc bê bết trên
trán để lộ một cái sẹo thật to nơi đuôi mắt phải, đoạn nhìn tôi:
- Em trai chạy vô nhà lấy cho anh xin miếng nước uống đi em.
Tôi đứng dậy co giò phóng vào nhà. Ít phút sau tôi mang ra cho các anh một ca
nước đá bự, một cái ly và một ít kẹo đậu phọng với bánh in mà má tôi đưa thêm.
Họ ăn, họ uống, họ nói cười vui vẻ, cơ hồ như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có
người thiếu úy là không ăn uống gì cả.
Người thiếu úy này cũng còn trẻ và đẹp trai như Tây lai nhưng dáng dấp rất
phong trần, uy dũng. Tôi đoán chừng tuổi đời anh chỉ khoảng 23, 24 gì thôi. Anh
có vẻ như đang lo lắng trước tình hình chiến sự lan rộng nên nét mặt luôn phủ một
lớp sương mờ căng thẳng.
Nắng lên khá cao…
Bỗng một tiếng nổ lớn từ đâu dội lại rung chuyển cả mặt đất. Tôi hoảng hốt. Mấy
người lính ngưng đào, ngẩng đầu nhìn quanh. Viên thiếu úy ngó về cuối xóm một
thoáng rồi nói với đồng đội:
- Anh em cứ tiếp tục đi, để tôi xuống dưới này xem sao.
Người thiếu úy xốc khẩu M-16 đang mang trên vai lên cao và bỏ đi trong tư thế sẵn
sàng tác chiến. Bên trong, má tôi gọi tôi vào và không cho ra khỏi nhà, vì sợ đạn
lạc. Xế trưa, lúc ông Dương Văn Minh ra lệnh cho binh sĩ buông vũ khí và đầu
hàng vô điều kiện thì má tôi vội vã kêu tôi cầm cái radio-casette hiệu Sanyo ra
cho những người lính bên ngoài nghe. Trong khi họ còn sững sờ thì viên thiếu úy
từ dưới đang vội vã đi lên. Một anh lính trẻ giơ chiếc radio về viên sĩ quan, hớt
hải, nghẹn ngào. Anh nói như sắp khóc:
- Thiếu úy, thiếu úy, ông Minh đầu hàng rồi. Mình thua rồi!
Viên sĩ quan khựng lại một lúc rồi chăm chú nhìn vào cái radio trong im lặng
não nề. Tiếng ông Minh kêu gọi đầu hàng cứ được lập đi lập lại hoài khiến người
sĩ quan trẻ nổi cáu:
- Ð.m. sao chưa đánh đấm gì đã lo đầu hàng?
Người thiếu úy giận dữ quát tháo, gương mặt đan xen nỗi đau và buồn. Sau
một đỗi phân vân, cuối cùng thiếu úy hạ giọng:
- Thôi đi.
Thế là họ bỏ chiến hào đang đào dang dở và hấp tấp chạy trở ra đường. Ðộ
chừng một tiếng đồng hồ sau, người ta nghe nhiều tiếng súng AK-47 nổ giòn giã rồi
tiếng M-16 bắn liên thanh đáp trả. Lẫn lộn trong đó thỉnh thoảng có cả tiếng
súng M-79 đệm vào. Ðứng trong sân nhà nhìn ra, tôi thấy có vài cột khói đen bốc
lên cao.
Từ bên ngoài, vài người trong xóm tôi tất tả chạy về. Gặp má tôi đang đứng lấp
ló nơi cửa, họ báo:
- Ðang đánh nhau ở ngoài Ngã Năm dữ lắm cô Ba.
Ngã Năm Bình Hòa là giao điểm của năm con đường từ năm hướng khác nhau. Năm Mậu
Thân 1968, nhiều trận đánh đã diễn ra ở đây khi Lực Lựợng Bảo Vệ Biệt Khu Thủ
Ðô của quân đội VNCH ngăn chặn các mũi tiến công của cộng quân từ bên ngoài đổ
về qua mấy cửa ngỏ như Gò Vấp, Cầu Bình Lợi, Lò Vôi hay Ðồng Ông Cộ… nên nó trở
thành một trọng điểm chiến lược vì là một trong những lộ chính tiến vô thủ đô
Saigon.
Chiều cùng ngày, khi lịch sử đã an bài, dân chúng bắt đầu túa ra đường phố. Lớp
thì đón quân “Giải Phóng,” lớp khác lại mừng đất nước “Ðộc Lập,” trong khi tôi
thì tò mò theo người cậu họ ra xem tình hình ngoài ngõ. Nghe thiên hạ bàn tán
xôn xao có lính chết ở chỗ Ngã Năm Bình Hòa, cậu cháu tôi lần bước tới quan
sát. Một đám đông đang vây quanh trước Nhà Thuốc Tây Tiến Thành, là nhà thuốc của
má thằng bạn tôi. Cố gắng chui vào đám người hiếu kỳ ấy và luồn lách một tí,
tôi tới được bên trong. Giữa vòng người nọ là xác một người lính nhảy dù nằm chết
cứng. Ngực thủng một lỗ lớn, chiến bào loang đầy máu và đã chuyển sang nâu sậm
nhưng đôi mắt anh vẫn mở trừng trừng. Nhìn kỹ, tôi chợt giật mình: người đó
chính là viên thiếu úy ban sáng!
Ðang còn ngỡ ngàng, tôi bỗng thấy có một thanh niên vẹt đám đông bước lại gần
xác người thiếu úy. Anh mặc một chiếc quần tây đen ngắn củn và áo thì rộng lùng
thùng như đồ của ai cho chớ không phải của anh vậy. Anh khom người xuống,
giơ tay vuốt nhẹ nhàng lấy khuôn mặt lạnh vô hồn kia. Ðôi mắt từ từ nhắm lại và
nơi khóe miệng một dòng máu nhỏ rỉ ra bên mép. ường như chàng thanh niên lâm
râm khấn vái điều gì đó nho nhỏ, đoạn anh đứng lên, bước ra với đôi mắt đẫm lệ.
Tôi nhận ra ngay anh chính là người lính xin nước tôi lúc sáng, nhờ vết sẹo to
nơi đuôi mắt.
Thiên hạ bàn tán sôi nổi khi dòng máu tươi nơi khóe miệng của thi hài đã lâu
kia rỉ ra. Người miền Nam vốn duy tâm, thiên hạ tin rằng đấy là một điều linh
thiêng vì vị sĩ quan này có lẽ còn có chuyện chi oan ức. Ðột nhiên, chị Bảy
bán tạp hóa sau lưng tôi lên tiếng kể lể với những người xung quanh:
- Ông thiếu úy này và mấy người lính của ông ta nấp ở vách tường bên kia kìa. Ðứng
trông cửa sổ nhà nhìn qua, tui thấy mấy ổng bắn xuống phía mấy ông “Việt Cộng” ở
dưới Ðồng Ông Cộ quá trời. Cuối cùng chắc thấy không xong, ổng biểu mấy người
lính của ổng chạy đi còn ổng thì vẫn ở lại. Rồi hình như ổng bị thương sao đó
nên bò sang nấp vô Cổng Ðình Thần Bình Hòa này nè. Hai bên còn bắn nhau một lúc
lâu nữa và khi không còn nghe tiếng súng thì tui dòm ra thấy ổng lết tới đây rồi
chết luôn.
- Hết chiến tranh rồi mà chết, tội nghiệp quá! Không biết có gia đình vợ con gì
không? Thân nhân mà hay được chắc là buồn lắm.
Ông già bên cạnh chị Bảy nói theo làm mọi người mủi lòng trước sự hy sinh oai
hùng của viên thiếu úy. Chợt một bà cụ cầm tấm chăn, không biết từ đâu, tách
đám đông bước vô phủ trùm lên xác người thiếu úy và mếu máo:
- Dù con không có họ hàng gì với bà nhưng bà thấy con chết thảm bà thương quá.
Tội nghiệp, con cái nhà ai vậy không biết nữa. Thôi con chết rồi, con hãy thanh
thản ra đi và nếu hồn con có thiêng thì phù hộ cho bà con nơi đây được nhiều an
lành nha con!
Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá
đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy
người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười khóc rấm rức
như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận
kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi. Ngẩng
mặt lên bắt gặp tôi đang nhìn anh trân trối, anh vụt bỏ đi.
Ngó cho đến khi bóng dáng xiêu vẹo của anh khuất nơi cuối chợ, tôi thấy lòng
nao nao buồn. Cảm khái trước một nỗi niềm mất mát bao la của tình đồng đội
thiêng liêng cao quý lẫn tiếc nuối cuộc đời binh nghiệp nữa đường gãy đổ, tâm hồn
tôi tràn ngập cả một sự chua chát to lớn.
Nhưng tôi đâu biết rằng, đó chỉ là khởi điểm của một trang sử đau thương cho
dân tộc, cho hàng vạn sinh linh sau này.
Charleston, South Carolina
Triều Phong