Huế có giòng sông Hương. Giòng sông mang tên con gái, hay con gái mang tên
giòng sông. Khi gọi “Hương ơi!” thì vẻ mượt mà của giòng sông hay bóng dáng yêu
kiều của giai nhân đến trước? Nếu đến để mà đi là người con gái, nhưng đến để chảy
mãi trong lòng là giòng sông.
Tôi xa Huế tròn 20 năm. Những mảnh đời vinh quang và cay đắng đã thành đồi,
thành núi, thành sông… hay chỉ là những đám bụi mù không tên tuổi, lần lượt đến
rồi đi cuối mùa như những hàng phượng già trên cao và khóm hải đường dưới đất.
Nhưng giòng sông ấy vẫn trôi chảy hoài, có khi triền miên heo hút, có lúc bão
liệt cuồn cuộn nhưng chưa có một lần đứt đoạn ở trong lòng. Giòng sông như một
định mệnh hư ảo, một ám ảnh trường kỳ, một sự vỗ về rất mẹ, một nỗi nhớ rất
tình yêu, nhưng chưa bao giờ khước từ sự quay về của ký ức hay chối bỏ những ân
tình vắng mặt. Hình như không có ngoại lệ, mỗi người Huế xa quê đều mang theo
một giòng sông cho đến cuối đời. Đôi khi ngỡ giòng sông ấy chỉ là tâm ảnh,
nhưng không, đó là một hiện thực vô cùng. Những người Huế thành công xứ người
vẫn mong ngày về với giòng sông để soi chút vinh quang của mình trên sóng nước.
Những người Huế không may sống hẩm hiu xa Huế không mong chi ngày hội ngộ nhưng
vẫn man mác nỗi xót xa khi tưởng đến sự cau mặt của giòng sông. Phải chăng tâm
lý “soi bóng giòng Hương” đã dự phần năng nổ “xui khiến” dân Huế tha hương hầu
hết nếu không xênh xang áo gấm thì cũng chẳng đến nỗi khăn gói quả mướp… về
làng.
Người tìm về sông, sông tìm về nguồn, nguồn tìm về cội. Vì thế mà lịch sử
con người khó thấy một vẻ đẹp kỳ tú, một thành phố nên thơ, một quê hương mơ
ước mà thiếu vắng một giòng sông. Khi giòng sông khô cạn trong lòng cũng là khi
giòng sông biệt xứ.
Âu Châu là chiếc nôi văn hóa trong lịch sử văn minh cận đại, nhưng sự trôi
chảy của nguồn văn hóa từ từ chậm lại khi văn minh vật chất đày biệt xứ những
giòng sông. Có ai từng ngồi bên bờ sông Seine trong một đêm khuya rất vắng,
nhìn vẻ mặt ngước lên gần như thảng thốt van xin những ngôi sao đừng chiếu sáng
của bức tượng người đàn bà dưới gầm cầm Mirabeau cảm nhận hết được nỗi niềm
biệt xứ của một giòng sông. Sông Seine mây nước xanh trời thuở Appolonaire làm
thơ đã bị mớ văn minh vật chất biến đổi thành một mương nước nông sâu giữa hai
bờ xi-măng và đá. Những tòa cao ốc nối đuôi nhau soi bóng hai bên bờ sông Siene
thật là tội tình cho giòng sông. Giòng sông như ngỡ ngàng không chảy nổi vì
thiếu vắng cây xanh soi bóng mùa Xuân, hoa thạch thảo soi bóng mùa Hè, lá vàng
soi bóng mùa thu và những cành trơ xương trĩu tuyết soi bóng mùa Đông.
Ai có lặng lẽ đi ven sông trong buổi chiều về rất chậm trên những thành phố
Âu Châu mới thấy được những con sông biệt xứ. Và thật mỉa mai, sự biệt xứ lại
thường chỉ dành cho những giòng sông con gái hiền hòa có con nước dịu dàng như
tóc mây dậy thì dầm sương muối. Còn những giòng sông lãnh chúa vạm vỡ với thủy
lung trùng trùng như Cửu Long, Hoàng Hà, Missisippi, Amazon, Nile, Volga thì
vẫn tất bật ra biển về nguồn từ buổi cổ sơ mà không ai ngăn trở. Cũng có những
giòng sông qua đời vì cái bồi đất lở trong khi những giòng sông biệt xứ thì vẫn
sống mòn bất tận. Có chăng một chút reo vui thì cũng chỉ là cảnh cá chậu chim
lồng. Những giòng sông đó đã bị con người đày ải để sống cuộc đời của mương
nước giòng kênh.
Sông Hương là một giòng sông hiền hòa. Với vẻ đẹp “lung linh đáy nước lưng
trời”, giòng sông rất dễ bị con người dựa bóng để trang điểm cho ảo tưởng và
khát vọng của uy quyền, giàu sang dễ dãi.
Xa Huế 10 năm, rồi 15 năm, 20 năm, tôi có những lần về thăm Huế. Nỗi vắng
lặng 20 năm trước nhường chỗ cho sự chiếm ngự hai bên bờ sông Hương. Về Huế năm
1992, dăm ba quán mọc ven sông Hương có khuynh hướng “bành trướng lãnh thổ”
không phải bằng thế mở đất mà bằng thế chiếm sông. Về Huế 5 năm sau 1997, đã có
những công trình giới hạn xây dựng nhà cửa ăn làn ra bờ sông. Và về Huế những
lần sau, những ngôi nhà lầu nhiều tầng mọc lên kênh kiệu sát giòng sông. Thiên
nhiên lùi bước khi nhà cửa thi nhau soi bản mặt vôi đá, trơ mắt ếch vô duyên
trên giòng sông xanh lồng bóng sương hồng ban sớm và mây tím ban chiều.
Sự nghèo hèn thường giấu mặt, nhưng sự giàu sang vật chất thường ô nhiễm lên
nhau. Trong ba, bốn thập niên vừa qua, dân Mỹ giàu có đua nhau dựng nhà trên
đồi. Nhìn những bờ đồi xanh bị cao trọc và những ngọn núi cụt đầu để cho những
căn nhà đồ sộ mọc lên, người yêu thiên nhiên phải lắc đầu ngao ngán vì những
dải đồi xanh và những trái núi bầu bĩnh bao quanh những thành phố và thung lũng
đầy hoa vàng dần dần sẽ bị đày chung thân biệt xứ. Núi sẽ không còn núi, đồi
cũng chẳng ra đồi mà chỉ còn là thế đất cao nhìn xuống những con đường phố.
Những buổi chiều ngồi trên bờ sông, chặng từ Bãi Dâu, Cồn Hến lên Kim Long,
Văn Thánh với Túy Linh, Đoàn Tuyền Châu, Hòa, Quyết… chúng tôi thường nói về vẻ
đẹp thay đổi từng lúc từ sớm đến chiều của sông Hương và bỗng lo xa, dù cho sự
lo xa đó mới chỉ là một sự giả định “Lỡ một mai tê bóng xế qua cầu”…
Nếu tham vọng “Hương Giang hóa” khung cảnh những ngôi nhà quyền thế hai bên
bờ sông Hương thắng thế, nét đẹp thiên nhiên của sông Hương sẽ lùi dần. Và
giòng sông nên thơ và lãng mạn truyền đời “Hương Giang nhất phiến nguyệt, kim
cổ hứa đa sầu” của Huế ấy sẽ từ từ đi vào cõi biệt xứ. Sông Seine ở Paris, sông
Thames ở Luân Đôn đã đi vào biệt xứ vì văn minh kỹ thuật đã thắng văn hóa thiên
nhiên. Chuyện buồn mấy trăm năm trước ở Âu Châu là một bài học cho Mỹ Châu cho
đến hôm nay nơi xứ này những giòng sông như American River mà tôi vừa đi qua
chiều nay vẫn còn lồng bóng là mùa thu vàng, lam, tím, đỏ.
Giòng sông quê hương của tôi bên trời Hương Giang xa xôi nớ có đang thao
thức mùa lá vàng thu như bên ni?!
Trần Kiêm Đoàn