Một bà Mai khác ở Phnom Penh. Ảnh chụp tháng 3 năm 2016
Từ đây góc bể bên trời
Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Tôi đang lẽo đẽo theo chân Anh Vũ đi lòng vòng Phnom Penh để tìm
hiểu về sinh hoạt tôn giáo, và xã hội của một số người Việt đang
sống ở thủ đô Cambodia thì nhận được thư của anh Ngô Thế Vinh. Tác
giả Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng biểu tôi chạy lên
Nam Lào chụp vài tấm ảnh – nơi vừa khởi công xây con đập Don Sahong –
để dùng cho ấn bản tiếng Anh (The Nine Dragons Drained Dry The East
Sea In Turmoil) cuốn sách sẽ do Giấy Vụn xuất bản nay mai.
Cùng lúc, anh Trịnh Ngọc Lân và bằng hữu cũng rủ tôi qua Hạ Lào.
Qúi anh muốn cùng bà quả phụ Nguyễn Văn Đương đến tận chiến trường
xưa, để thắp một nén nhang tưởng niệm người anh hùng đã hy sinh trong
cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, hơn bốn mươi năm trước.
Dù rất ham đi, ham vui, và dễ dụ, tôi vẫn phải từ chối lời đề
nghị thứ hai vì không thể đi hai nơi trong cùng một lúc. Hơn nữa, tôi
cũng thành thực tin rằng khi công luận đã biết đến tình cảnh khó
khăn của bà Trần Thị Mai thì ước nguyện thắp một nén nhang – ở nơi
xa xôi – cho người quá vãng sẽ không còn là một việc khó khăn.
Nhờ nán lại Cambodia vài hôm nên tôi và Anh Vũ đã gặp được thêm
một bà Mai nữa. Chúng tôi tình cờ nhìn thấy bà đang dạo quanh những
bàn ăn ở quán cơm Ba Số Bẩy – trong khu chợ Tô Sanh, ở Nam Vang – để
chào mời thực khách mua vé số. Loại số sổ hàng ngày, phát hành từ
những tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long – Việt Nam.
Bà nhận lời mời ngồi chơi, uống nước, nói chuyện “tâm tình”
mươi/mười lăm phút. Nhờ thế, chúng tôi mới biết được những nỗi khó
khăn trong cuộc đời của một bà Mai khác – bà Nguyễn Thị Mai. Cũng như
bà Trần Thị Mai, bà Nguyễn Thị Mai cũng có chồng là một người lính
miền Nam đã mất, và cả hai đều đang chia chung một cảnh đời cùng
quẫn.
Bà Mai Nguyễn quê ở huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, nơi mà chỉ cần
vài giờ xe là đã bước sang xứ khác – xứ Chùa Tháp. Tuy thế, đã lâu
lắm rồi bà không trở lại chốn xưa vì không còn thân bằng quyến thuộc
gì nơi cố quốc.
Bà Mai đành nhận Cambodia làm mảnh đất dung thân. Quê hương thứ hai –
may thay – đủ lượng dung cho một người dân Việt Nam ở bước đường cùng
(không chồng, không con, không tiền, không nhà, và không cả manh giấy
tùy thân) vẫn sống được lây lất qua ngày. Mặc dù không thể đi nhiều
trên đôi chân đã bắt đầu run rẩy, bà Mai còn có thể kiếm được mười
lăm/hai mươi ngàn đồng riels mỗi ngày, nghĩa là khoảng trăm hai đến
trăm năm mươi Mỹ Kim hàng tháng. Chỉ cần nửa số tiền này cũng đã đủ
để thuê được một chỗ tắm rửa, và ngủ nghỉ qua đêm.
– Ban ngày tôi đi suốt mà, đi mệt thì ngồi, được cái người Miên họ
dễ lắm mấy chú à. Họ cho mình ngồi trong quán nghỉ, cho sài cầu
tiêu cầu tiểu thoải mái, và có khi còn cho đồ ăn dư luôn nữa.
Lời bà Mai khiến tôi thốt nhớ đến dòng chữ “Vé Số Không Được Vào Nhà Vệ Sinh” trong một tiệm
cà phê, ở An Giang. Nó cũng giúp tôi hiểu tại sao lại có cả “một
đạo quân vé số” xuất hiện ở Nam Vang. Người Miên – xem chừng – “dễ”
hơn người Việt, và “dễ” hơn nhiều lắm!
Ảnh: Đất Việt
Trong khi chuyện trò với chúng tôi, bà Mai hay nhắc đến Chúa và
khẳng định nhiều lần: “Chúa chỉ sao thì tui chịu vậy thôi.” Bà khiến
tôi tự hỏi ngoài bà Trần Thị Mai và Nguyễn Thị Mai, hiện còn có bao
nhiêu bà Mai khác nữa đang “chịu vậy” mà không một lời than van – và
cũng chả một ai đoái hoài tới họ – từ nửa thế kỷ qua!
Phải đợi đến mãi thời gian gần đây, mới có những lời kêu gọi “tri
ân” và “giúp đỡ” những thương phế binh thuộc QLVNCH. Hai chữ “tri ân”
tuy nghe vô cùng trang trọng nhưng sự “giúp đỡ” – xem ra – lại không
được nhiều nhặn gì cho lắm, mới chỉ có tính cách tượng trưng. Đối
với người sống sót (dù sống trong cảnh tàn phế) còn thế thì nói
chi đến những bà quả phụ mà chồng đã chết trận tự lâu.
Cuộc chiến Bắc/Nam kết thúc vào năm 1975. Hơn bốn mươi năm đã trôi
qua nhưng công luận – dường như – mới chỉ được nghe nhắc đến tên của
năm ba bà quả phụ: Ngụy Văn Thà, Nguyễn Thành Trí, Nguyễn Văn Đương …
Khi nghe hỏi về ước nguyện hiện tại của mình, bà Mai trả lời với
ít nhiều bình thản:
– Tui không có mong ước gì ráo trọi. Bây giờ còn đi bán được ngày
nào thì hay ngày đó thôi. Bữa nào cũng phải đi lòng vòng hơi mệt
nhưng tui thấy khuây khoả, lúc nào cũng có xấp nhỏ bao quanh, và cả
lũ đứa nào cũng sẵn sàng “bán dùm vé ế cho ngoại Mai kẻo tội.” Đêm
về thì có sẵn chỗ để nằm, không ai đụng chạm phiền phức gì mình,
vậy là được rồi. Chỉ sợ khi chết bỏ xác ở xứ này không ai chôn cất
thôi.
Tôi buột miệng:
– Chết là hết chị ơi, hơi đâu mà lo mấy chuyện lùm xùm sau đó.
Mình nằm xuống thì mấy người ở lại buộc phải chôn thôi. Nếu không,
cái xác thúi rùm tụi nó chịu đời sao thấu.
Câu nói bạt mạng của tôi, không ngờ, lại được bà chị tán thưởng
bằng một nụ cười móm mém. Tuy thế, tận trong ánh mắt của người phụ
nữ “nhiều nỗi chuân truyên” này, tôi vẫn thấy (thấp thoáng) một nỗi
buồn – không kín.
Tôi không đùa (cũng không dám dở giọng khinh bạc) khi nói về những
chuyện liên qua đến thân xác của con người, sau khi đã nhắm mắt kìa
đời. Chết là hết, chớ còn khỉ gì nữa!
Tôi dặn con nhiều lần: “Không cần mang tro cốt ra biển làm chi, cứ
đổ cha nó hết vào cầu tiểu rồi giựt nước là xong. Nếu làm vậy tụi
bay thấy hơi khó coi (hay sợ tiếng đời dị nghị) thì bỏ nhúm tro tàn
vào bồn rửa chén, mở nước chẩy ri rỉ qua đêm, là bố cũng tà tà ra
tới … biển thôi.”
Khi tao chết chớ mang tao ra biển
Đừng mất công làm chuyện tào lao!
Thế hệ chúng tôi (Ngô Thế Vinh, Trịnh Ngọc Lân, Trần Thị Mai,
Nguyễn Thị Mai, Tưởng Năng Tiến …) rồi sẽ qua, và cũng sắp qua rồi.
Điều băn khoăn không phải là chúng tôi sẽ chôn cất ở đâu, hay thiêu đốt
ra sao mà là kiếp sống bấp bênh và nhếch nhác của những người còn
ở lại – những thanh niên thiếu nữ Việt Nam đang “đồng nghiệp” của ngoại
Mai, ở Cambodia. Tôi nhìn họ đang tò mò vây quanh thiết bị thu thanh
của Anh Vũ, lắng nghe chúng tôi trò chuyện, mà thấy nặng lòng.
Một đồng hương và “đồng nghiệp” trẻ của “ngoại Mai”
ở Phnom Penh. Ảnh chụp tháng 3 năm 2016.
Họ đều còn rất trẻ, đều rất hồn nhiên, và (tất nhiên) đều thất
học – dù tuổi chỉ khoảng từ 15 đến 20. Các em từ đâu đến, và tại
sao lại quanh quẩn trong hàng quán nơi đây thay vì đang ngồi dưới mái
trường? Câu trả lời có thể tìm được trong một bài viết ngắn của
nhà báo Hữu Danh:
“Ở vùng ĐBSCL, nhiều doanh nghiệp xổ số nộp ngân sách cả ngàn tỉ đồng/năm.
Với nhiều địa phương, thu từ xổ số là nguồn thu chính. Để có nguồn thu này, các
công xổ số đều dựa vào lực lượng bán vé số dạo. Họ là ai? Là trẻ em, thay vì
được đến trường thì áo quần rách rưới, tay cầm xấp vé số đi ‘bán cái rủi may’;
là những ông bà lão bảy – tám mươi tuổi, lẽ ra phải được an hưởng tuổi già, vui
vầy cùng con cháu thì phải còng lưng mời từng tờ vé số; là những người tật
nguyền, khi mà hệ thống an sinh xã hội còn quá kém, phải vừa bò vừa lết ngoài
đường, bò lết dưới chân trai thanh gái lịch trong những quán cà phê, nhà hàng
để bán từng tờ vé số bằng cách kêu gọi lòng thương…”
Những đồng hương và “đồng nghiệp” trẻ của “ngoại Mai”
ở Phnom Penh. Ảnh chụp tháng 3 năm 2016.
Lòng thương (ngó bộ) đã cạn kiệt ở quê hương, nơi mà người bán
nhiều hơn người mua, và “bán vé số không được vào nhà vệ sinh” nên
không ít kẻ phải lần dò qua đến tận xứ người. Dù không phải là
thầy bói, tôi vẫn có thể đoán được là trong lòng bàn tay của tất
cả các em đều có đường xuất ngoại nhưng lại thiếu đường may mắn. Số
mệnh của cả một thế hệ (e) đã được an bài.
Sẽ còn có thêm vài ba thế hệ kế tiếp đi chào mời vé số (hay thân
xác) nơi xứ lạ, nếu dân Việt vẫn giữ thái độ thản nhiên trước những
mảnh đời rách nát và vẫn đồng lòng nhắm mắt để cho chế độ hiện
hành tiếp tục hoành hành trên đất nước này.
Tưởng Năng Tiến