Biệt Kích Dù
Tôi đã nhiều lần định viết về những
người tù kiệt xuất của Quân Lực VNCH: những anh em Biệt kích dù, những người
“từ trên trời rơi xuống”, nhưng tôi cứ lần lữa mãi. Lười biếng thì chỉ có một
phần. Lý do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở
trong một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen
1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hàng tháng, hằng quý
vẫn còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn còn có chút
âm hao để mà theo dõi. Những anh em Biệt kích dù thì đúng là “thượng diệt, hạ
tuyệt” – không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng ký,
không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những người lính ấy ở dưới
tay. Không được liên lạc với ai, coi như không còn hiện diện ở trên trái đất. Ở
trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, những
anh em Biệt kích dù đã tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những
người tình nguyện tham gia cuộc chiến này đã tự coi mình đã chết; Nhảy xuống,
tìm được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn giấu được là sống là thi hành
xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết thì “Anh tự lo liệu cho cái thân anh,
không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được”.
Những người tù “đứt dây rơi xuống” này không được hưởng chút quyền lợi nào từ
quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự,
Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao can thiệp vì các anh đâu có quân bạ,
quân số, đâu có tên tuổi được đăng ký hợp pháp ở một chính phủ nào.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (thời tổng thống Ngô Đình Diệm), nghe nói đại tá Lê
Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đằng sau có
cơ quan tình báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng
hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan tình báo Ngũ Giác
Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết.
Nghe nói những người được tuyển chọn
vào Biệt Kích dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những khả năng
đặc biệt về nghiệp vụ như tình báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng
bằng, ẩn giấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bịnh tật với thiên
nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ còn phải là
những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, lãnh tụ. “Sống không rời nhiệm
vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt kích…
Như mọi người đã biết, cuộc chính
biến 1 tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, anh em tổng thống
Ngô Đình Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng
thống Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên
cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt kích dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh
em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch Lê Quang Tung –
Lê Quang Triệu bị hạ sát, đã rơi vào tình trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế
là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô tình hay cố ý
nào không, nhưng các anh em Biệt kích dù ra Bắc lần lượt bị phát giác bị truy
bức, bị giết và bị bắt. Không ai biết rõ hay là biết mà không dám nói ra, đã có
bao nhiêu Biệt kích dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những gì” Bao nhiêu người
sống, bao nhiêu người chết” Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống
hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi
quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh
nào, người có công nhất chưa chắc đã là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng
sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống
trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển. “Gươm
anh linh, biết bao lần vấy máu, còn xác xây thành, thời gian luống vô tình”
(Chiến sĩ vô danh – Phạm Duy). Thời gian cũng như lòng người, đều vô tình như
nhau. Nào ai còn nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt kích dù ra Bắc
đầu thập niên 60 năm ấy, ai còn, ai mất”
Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi
đến huyện Như Xuân chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy
đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này
chưa có tên trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là trại tù ẩn giấu, nơi giam
giữ những tù nhân “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được
đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Phòng Nhì, Trung ương tình
báo, Chiến tranh chính trị, Bình định nông thôn… thành phần mà “Cách mạng” cho
rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì anh em
chúng tôi chưa có ký lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2, phân trại chính
và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra
chính là anh em Biệt kích dù từ đầu thập niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.
Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm
suối. Chợt gặp 2 người, lưng mang dao quắm, khiêng mỗi người một bó nứa khá to.
Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác mới ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống””
Chúng tôi gật đầu đồng ý. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo
đúng lễ nghi quân cách mà đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt kích dù đây”.
Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang
mang chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa
nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh
trong tình cảnh này, đau đớn quá”.
Anh em Biệt kích dù về miền thượng
du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi
đã trải qua những năm tháng tù đầy khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên
giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục Xương” Cao Bằng hay trại Sơn
La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn
công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979 thì có lẽ anh em Biệt Kích Dù
vẫn còn quẩn quanh nơi núi rừng phía Bắc. Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn
rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích Dù nói với tôi: “Coi
như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với “nhân dân” nhiều
nhất. Cũng vì thế nên mới được gặp các anh ngày hôm nay” Trong số các anh em
Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm,
người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, chúng tôi đi
cải tạo đã được 5 năm, đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em
Biệt Kích Dù này thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn còn
liên lạc được với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh còn được người nhà
từ trong Nam ra thăm nuôi nữa. Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đã lác đác
được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đã có leo lét một vài tia sáng.
Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách
biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái
đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn
dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng còn thua
xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích Dù chưa hề có ai được tha
về. Không, cũng có một số anh em được về – nhưng… đó là “về với đất”.
Khẩu Lệnh Biệt Kích Dù
Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách
K1 nơi giam giữ các anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2
chừng 1 giờ đi bộ còn có K3 – nơi giam tù hình sự loại hung dữ nhất: cướp của,
giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa hồi
kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh
Hồi Xuân – La Hán so với đường vào trại Thanh Phong thì chưa đi đến đâu… Một
người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm
chồng mà khóc. Người vợ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa
trải qua những khốn khổ nào. Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy
20 cây mà hai ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái gì đã xảy ra cho người đàn
bà miền Nam một nách trên 30 ký quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con
đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời đổ mưa xuống thì là tai họa. Suối
đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung
đất hẹp, rừng không giữ được nước nên nước trên trời đổ xuống là nó theo sông
theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó,
làm gì có phương tiện sang sông lúc nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau
và xuống cũng rất mau. Người đàn bà thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái
chòi vắng ven rừng. Đêm đến, những “con người thú” đã khai thác đến tận cùng
thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đã
muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng vì không muốn bỏ rơi mấy đứa con còn nhỏ lại ở
Sàigòn, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp
cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.
Câu chuyện đau khổ ấy, dù người
chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành
một nỗi lo âu trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm
nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con mình, thân nhân mình phải hứng
chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi mình thì khốn nạn cho
vợ con mình quá. Nhưng lo thì lo vậy, biết tính làm sao. Thân mình còn chưa
chắc là của mình thì còn lo cho ai được nữa. Trước sự kiện mất an ninh, cướp
bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy, trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ
trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em Biệt Kích Dù thì ngược
lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi
lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù, nhưng trong
thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù vì tác phong của họ, vì
sự trên dưới một lòng của họ, nhưng lý do chính yếu nhất là vì Biệt Kích Dù
chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu còn
chấm mút được gì. Nhưng vì ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây nên trại
dễ làm mưa làm gió. Tục ngữ có câu “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà bá”. Chỉ cần
có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này thì không ai sánh
được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quý thiếu gì,
lại còn có quế nữa. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông
Phương.
Bây giờ không còn bao nhiêu nhưng
một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng tìm quế cho trại trưởng Thùy
“mồi”, bên ngoài gọi là đi lấy nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi
rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng thì ít mà lấy gỗ súc đem ra Thanh Hóa bán
chui thì nhiều. Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ
B., ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mỗi người một số danh mộc (như lim
sến, cán bộ vừa vừa thì có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở
quê nhà.
Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một
thứ tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần
lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ
quan chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em
Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả tấm lòng kính mến. Rất ít
người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, vì anh không lao động, không đi ra
ngoài. Tuy vậy một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong
cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.
Phản ứng trước sự mất an ninh con
đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ
chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch
toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng hai xe trâu, do trâu của
trại kéo cùng với 2 anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, 1 ra, 1 vào giúp cho
thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi
chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe trâu để
chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này
được chấp thuận và sau đó gia đình cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở
hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt
giá cả gồng gánh – quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn.
Cùng một lúc với việc đóng xe trâu
chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng
thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù. Khẩu lệnh
như sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của
Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào
con nào động đến thân nhân của anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân
thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một
đền mười”. Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân tay, nặng là giết
mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có gì để mất, đã nói là làm”.
Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên
trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối…
Gặp người chỉ huy Biệt Kích Dù
Hai cái xe trâu, mộ ra, một vào từ
trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không
những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà
còn là một đường giây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”. Muốn
“bắn” một cái thư khẩn cấp về Sàigòn, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc
tây, báo chí… cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào khoảng 3, 4 giờ
là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy cái lán của đội mộc,
đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù gần như quen
biết hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em
cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc
có cán, hay là tờ báo. Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không
ít thì nhiều. Vài bó nứa sửa lại căn nhà, cây tre làm cột, ít vòng mây buộc lại
cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền thì như đã nói, anh em Biệt
Kích Dù “đấm mõm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc thì cũng gỗ súc hay
đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi nghề, cung cấp
nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy
gỗ, lấy nứa, lấy mây – ở nhà thì có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội
chăn nuôi… anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết
rõ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.
Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1
đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá công an Thùy “mồi”, nhưng trên
thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đầy gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt
đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con
người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được
gặp, vì anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm
trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt
Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người tù sau
20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy QLVNCH… tôi chưa
thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. Bắt Nguyễn Hữu
Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự
của một sĩ quan QLVNCH không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách.
Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”. Anh đã bị kiên giam nhiều năm
tại rất nhiều trại rùng rợn, dã man nổi tiếng nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau
vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc
Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đã
trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải
chấp nhận. Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với
anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh
em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù
ho “tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em
Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện.
Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lãnh tụ Ngô Đình Diệm,
Ngô Đình Nhu chúng tôi chưa có chết. Còn ẩn lánh đâu đó… Lãnh tụ chúng tôi ngày
nào đó sẽ trở về…”. Nghe anh Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích
Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm. Họ nói “được lệnh của đại
úy Nguyễn Hữu Luyện anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa
mới mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều
hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các
anh thì chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa
tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm
xuống”. Sau điều đình mãi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại
và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ
hết.
Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe
chuyện kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện, tôi vừa tự hào vừa buồn bã.
Tự hào vì đồng đội đã có những người kiệt xuất như vậy, buồn bã vì nhìn lại bản
thân, nhìn anh em xung quanh mình thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm
tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với
chúng tôi, vừa là một đường giây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, còn là một
nơi nương tựa tinh thần.
Tết năm 1982. Một số lớn anh em
trong trại K2 đã chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi thiếu rất
nhiều “nhân tài” nhưng vẫn phải trình diễn cho anh em vui Tết. Thiếu người,
thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ.
Không ngờ đội văn nghệ “què” như vậy tết lại phải đi “lưu diễn” trên K1 và K3.
Mùng 2 chúng tôi lên K1 – đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần 2 tiếng đồng hồ
khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói rằng: “Chẳng mấy
khi được đón tiếp các anh, bữa nay anh em K1 chúng tôi xin được hạ một con heo
để đón mừng anh em văn nghệ”. Tôi được biết sau này sự hậu đãi ấy là do ý kiến
của đại úy Nguyễn Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi
được tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy. Theo chương trình, đội văn
nghệ trình diễn buổi trưa, diễn xong, ăn uống rồi về.
Đang trông nom cho anh em dựng sân
khấu ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh
Luyện em mời anh vô trong lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của
tôi là được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật
và con người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo
người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2 cũng như K3 lán tù
thường tối và thấp. Đi qua 2, 3 căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn
buồng đầu lán. Vừa bước chân vô chưa kịp định thần, tôi đã thấy một người cao
lớn, mắt sáng trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay
chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói: “Mes respects, mon colonel!”
Tôi thảng thốt không biết phản ứng
ra sao” Đi tù 5, 6 năm nay, mình là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân
đứng hàng thứ bét của nấc thang xã hội, tại sao lại có người chào mình trân
trọng như vậy. “Mes respects mon colonel” là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu
năm nay, có nghe thấy, nhìn thấy kiểu chào này đâu. Mình bây giờ là tù khổ sai
biệt xứ, đâu còn gì mà “Kính chào trung tá”.
Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay
người đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: “Thưa
anh, anh là Nguyễn Hữu Luyện”” Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi
tiếp: “Vâng, thưa anh tôi là Luyện”. “Anh Luyện ơi, anh làm vậy, tôi khó xử
quá, thời buổi này anh em mình gặp nhau là quý”. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời
bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói, “Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như
vậy. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.
Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ
Đức. Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng 20 năm qua, nếu
anh còn ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy không biết anh đã lên tới
cấp nào, đâu có lẹt đẹt như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đã có người lên tướng. Nhưng
đối với người như Nguyễn Hữu Luyện theo tôi cấp bậc là thứ yếu, nhân cách mới
là chính yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh
của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ”
Sau một tuần trà Nguyễn Hữu Luyện
chậm rãi nói nhỏ với tôi: “Có một ‘thằng em’ vừa nhận được một cái tin rất lạ,
rất mới. May mà lại được gặp anh hôm nay ở đây. Được biết anh vốn là một nhà
báo. Xin anh cho ý kiến về tin vừa mới nhận này”. Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra
dấu cho một anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”. Trước khi Th. tới,
anh Luyện có cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về
truyền tin. Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt nhưng
Th. vẫn xử dụng được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người
“phấn đấu tiến bộ” là đạt 3Đ: Xe Đạp, Đồng Hồ và Đài (radio). Trong hàng ngũ
cán bộ thì công an vốn là một nơi an toàn “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội
là phải đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi
đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ công an tương đối có nhiều
người đạt tiêu chuẩn 3Đ. Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài,
dễ hỏng. Vì vậy nên chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát
sau anh Th. lên gặp chúng tôi. Anh nói rằng: “Em sửa đài cho cán bộ quanh năm
không lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc
nào em cũng phải lấy cớ này cớ kia để giữ lại bên mình một cái đài “chạy được”.
Em giữ lại để đeo “ê cút tưa” vào nghe tin tức một mình. Thưa anh, tối hôm qua,
mùng 1 Tết, chính tai em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ tên đang ở
VN, nói chuyện với các nhà lãnh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất
tích, về tù nhân chính trị… Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích
nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa
anh, vài chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi
em. Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đã chết rồi. Không số quân,
không tên tuổi, không nơi nào nhận. Chúng em là những người “đứt dây rơi xuống”
luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi “trên không chằng dưới không rễ”, không
còn liên hệ gì với xã hội loài người. Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà
Nội nói đến số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng…
không biết là mơ hay thật đây”. Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích
Dù mà nói: “Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông tướng Vessy, đặc sứ (special
envoy) của tổng thống Reagan đang viếng thăm Hà Nội. Các báo VN đều nhắc đến sự
kiện này. Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy”. Nguyễn Hữu Luyện vội chen
vào “Làm sao mình tin được đài Hà Nội”. Tôi nói tiếp: “Đây là một sự kiện có
tính quốc tế, truyền thông thế giới đều theo dõi sự viếng thăm của tướng
Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn giấu cũng khó lòng. Vả chăng thông tin của khối
Xã Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ loan tin nào có lợi cho họ. Tin bất lợi, họ quên
ngay đi. Việc tướng Vessey đến VN, ở bên trong chắc đã có một thỏa thuận nào có
lợi cho Hà Nội không mặt này thì mặt kia. Mình chưa biết được sự thỏa thuận ấy
đến đâu, chi tiết ra sao nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến
Hà Nội, nhìn chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt
là đối với các anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ý hay vô tình quên
lãng”. Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm “Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây
đã từng rút kinh nghiệm, không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ”. “Đồng ý
trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ còn nhớ đến đồng minh cũ, còn
lưu ý đến số phận khốn khổ của chúng ta thì ông Reagan là số 1. Nếu năm ngoái
cái tên Mỹ khùng nào nó bắn ông ấy chết thì chúng ta còn vất vả hơn nhiều. Bây
giờ đặc sứ của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt
kích dù thì tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết. Các bạn có
thể được về…”. Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện. Anh như nói
một mình “Được về, được về, mà về đâu”…”
Lời bình “Mao Tôn Cương” của tôi hồi
đầu năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến nửa năm 1982, có 2
đợt thả Biệt Kích Dù, mỗi đợt trên dưới 100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới.
Ông tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đã giở lại chồng hồ sơ mật đầu
thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới
20 năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người. Cùng thời gian
đó chương trình “nước sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng
rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở
thành nông trường, lâm trường rồi đem gia đình cải tạo viên lên chỉ định cư trú
ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn anh em tù chính
trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại Thanh
Phong K 2 chỉ còn lại trên 50 tù chính trị. Còn lại toàn là tù “đui, què, mẻ,
sứt”, già yếu bệnh tật… hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi thuộc số
trên 50 người còn lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại
tù chính trị K2 giải thể. Những người tù còn lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị
sẽ cùng anh em Biệt Kích Dù còn lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh:
Trại Tân Kỳ.
Về Trại Tân Kỳ
Trại Tân Kỳ này là một trại “trung
chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc còn lại hồi 76-77 trước khi về Nam về
tập trung ở trại này và một số khác ở Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa
đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt kích, tù Fulro, tù hình sự thứ
dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông
Đức” vì khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi được gặp nhiều loại
người: Ông Võ Tr. lãnh tụ VNQDĐ ở miền Trung Quảng Ngãi, linh mục duy nhất Trần
Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong
bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lĩnh Biệt Kích Dù.
Chính trong thời gian này, vì chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về
người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.
Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ
(Nghệ Tĩnh) chỉ còn độ 50 người. Vì có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích
Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi…
Riêng thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội
rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng
được xử dụng theo đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các
trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ
như Yên Hạ (Sơn La) Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở
đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành
Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị. Đồng nghiệp cũ của tôi là
thượng tọa nguyên Giám đốc Nha tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm
phán tòa Quân sự là Giáo sư trường Võ Bị Quốc Gia… Ở đây thì đại loại cũng như
vậy, ở khu “Tây Đức” này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu thì 1 là biện lý, 1
là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh chính trị và tôi. Sự
tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao ít”: “Chữ
nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Nguyễn Hữu Luyện
khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20
năm qua, và đã trở thành biệt lệ Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau
nhưng anh nhất quyết không đi làm…
Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ
sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đã dọn sạch, chuyển cho đội rau.
Nhà cầu đã quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm. Vì đã đeo khẩu trang,
bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể mình hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm
là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại
là một cực hình. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể
gầy còm, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao
động, người luôn luôn sạch sẽ nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng
chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “Cứ ào một
cái là xong”, Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không
có nghĩa lý gì. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang.
Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực Bắc nước
ta, cái lạnh còn ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt kích trên 20 năm, đi qua mọi
gian lao thử thách bằng một câu vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là xong”.
Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi
thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức
quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất
của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện hình như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh
được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất nhẹ, rất nhanh, không biết anh ăn
lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. Hình như anh ở tù lâu
quá, đói trở thành thường trực nên anh đã quen đi. Một vài anh em được thăm
nuôi hoặc nhận quà có lòng quý mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh
hay mời anh ăn một bữa cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng
vật nào. Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ, anh
nhất định chối từ. Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Anh Nguyễn Hữu
Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử
nó đòi hỏi thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ thì lại khổ
đấy anh ạ”.
Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng
nhận, một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một
nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là
cần thiết. Như đã nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, mình mẩy
hôi hám nên cực chẳng đã mùa rét mà vẫn phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi
lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.
Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít
ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đã cao anh lại
còn đi một đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh
nào anh nấy chân sứt mẻ, bè ra như tổ tiên Giao Chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện
chân trắng bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên
20 năm tôi bỗng nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:
Ta van cát bụi trên đường,
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót giầy.
Trong món đồ hàng ngày đi tắm rửa
của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm thì cứ thế
mà cởi truồng ra vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra
giếng rửa mặt thì cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với cái bàn chải đánh răng
là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men
xanh thật đẹp. Màu men óng ả chói ngời… tương phản rõ rệt với màu cố hữu của
trại tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: “Ở đâu mà có cái chậu men
xinh đẹp vậy””. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận
cái chậu này. Của tên trại trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy.
Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc
sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhãn hiệu chỉ rõ. Dạo cuối thập
niên 70, tên trại trưởng thiếu tá công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt
tôi đi lao động. Tôi thì nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem
xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi
người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh tôi cũng
cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa. Nó hành tôi mãi năm này sang năm khác mà cuối
cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết thì thôi tôi nhất định không đi lao động.
Không chịu thua chúng nó”. “Như vậy thì tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm,
tại sao nó lại tặng anh cái chậu này””. – “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành
tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa
hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa
lắm phải không” Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta
cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng tôi phải giữ cái chậu
men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế””
Tấm hình nhận đêm cuối năm
Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện
là một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh
ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền như diện bích. Nhưng không phải anh ngồi mà
anh đọc sách. Một cuốn sách dày để trước mặt. Anh người Công Giáo, tôi tưởng
anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi
chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về cách
đọc một vài chữ khó. Thì ra cuốn sách anh luôn để trước mặt là một cuốn tự điển
Anh-Việt. Bạn tôi hằng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi:
“Ông học Anh văn kiểu ấy thì bao giờ cho xong””. Luyện trả lời: “Được chữ nào
hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.
Nhưng học Anh văn theo tôi nghĩ rất
khó mà tự học. Còn văn phạm còn cú pháp, còn cách đọc, cách nhấn… làm sao cho
người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân “nhà cầu” nên ở gần
nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù rì bàn
chuyện tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng
Pháp, tiếng Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sàigòn có phát hành tuần
san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. Vì nhu cầu đọc báo cũng như nhu
cầu tìm học tiếng Anh nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đình gửi tới khá
nhiều. Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho
nhận. Anh em đọc New Time với quan niệm “Nó nói gì kệ cha nó – miễn là mình có
tài liệu học Anh văn”. Nguyễn Hữu Luyện là người tìm đọc New Time kỹ nhất.
Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đã được
gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù đã được tha về từ trại cũ Thanh Phong có lẽ
cũng đã được trên dưới nửa năm. Đã gần tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận
được quà nhà gửi “đông” hơn dạo trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên
thư từ, quà cáp tới mau hơn Thanh Phong nhiều. Tôi nhận thấy hàng ngày vào
khoảng buổi chiều, sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em Biệt
Kích Dù đến nói gì đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là “báo cáo” hằng ngày của anh
em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích
Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, quà… Anh
em là những người bị bỏ quên trong xã hội loài người. Nhưng gần đến Tết năm
1983 có trên 10 gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em
được về từ nửa năm trước đã họp nhau gửi quà cho những người còn ở lại. Trong
một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, anh Luyện kể: Một số lớn anh em
được về nhưng không còn liên lạc được với gia đình nữa. 20 năm qua gia đình đã
xiêu tán không còn nhận được âm hao. Có anh thì vợ đã lấy chồng khác, đã an
phận với một cuộc đời mới từ mười mấy năm qua. Ván đã đóng thuyền người trở về
không muốn gây phiền muộn cho cố nhân làm gì nữa. Những anh em tìm lại được
thân nhân, gia đình phải nói là hiếm. Vì vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù
sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tùy nghề nghiệp, tùy
hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới, trong một xã hội mới
đầy khó khăn, thù hận. Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan nhưng
những món quà của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia
dụng cả: gạo, nếp, mì, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp… những thứ cần
thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em được về như vậy đã không quên những
người ở lại. Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt Kích Dù “sẽ họp
lại ăn chung”. Một số anh em nhận được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu
Luyện thì không. Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không
tiện hỏi. Không biết gia đình của anh bây giờ ra sao” Có thể bản tính anh kín
đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt kích, được huấn luyện về bảo mật quá kỹ nên anh
không muốn nói về mình; hay là những năm tù kiên giam trong hầm đá đã làm cho
anh quen đi với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi
tiết khi tôi gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của
tổng thống Mỹ Reagan, tướng Vessey can thiệp thì các anh em Biệt Kích Dù có thể
được về, Nguyễn Hữu Luyện đã âm thầm khẽ nói “Được về, được về… mà về đâu””
Bây giờ tôi mới hiểu hai chữ “về
đâu”…” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có còn gia đình, có còn người thân
chờ đợi” Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tức… đâu
phải người đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu” Cái dấu hỏi sau chữ “về
đâu”” của Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lý. Gần Tết năm nay, khi một số khá
đông anh em Biệt Kích Dù đã có tin tức… tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho tình
trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có
khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.
Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến
với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time
như mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm
một số gói cho anh em Biệt Kích Dù và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà
gửi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số hình ảnh nhờ anh Biệt Kích
Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay
lại, đưa hình cho chúng tôi coi. Hình ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang
đứng lạy trước bàn thờ khói hương nghi ngút. Trên bàn thờ có tấm hình phóng lớn
của thân sinh cô dâu. Tấm hình trên bàn thờ nhìn kỹ đâu phải ai xa lạ chính là
hình Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động:
“Khi tôi đi con gái đầu lòng tôi mới có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đã lấy
chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng
tôi đã chết”.
Đây là lần đầu tiên, tôi thấy một
giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất
Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3
người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.
Bạn tù Fulro
Ở trại “Tây Đức” có 4 lán thì 3 lán
là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán còn lại là tù hình sự. Trại Tân Kỳ này
thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam
khá đông nên cả 2 khu “Đông Đức” – Tây Đức” chỉ còn lại chừng 500 tù. Chúng tôi
ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng
khoai, trồng trà, trồng mía… Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lý
lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại
tá, trung tá, thiếu tá… Nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết
chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe… luôn luôn cười nhe hai hàm răng
cà sát lợi. Sự ngây thơ, chân thật hiện rõ trong từng dáng điệu, từng lời nói.
Nghe, nhìn họ khó có thể tưởng tượng họ là tướng, tá trong mặt trận giải phóng
liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front Unité pour la Libération des Races
Opprimées). Phong trào này đã phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đã gây
phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng Tư đen 1975 khi miền
Nam được “giải phóng”, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không
những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận võ trang
chống đối CS rất mạnh mẽ tại miền Cao Nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương
Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum – Pleiku bị
bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200
tướng, tá Fulro bị bắt giữ.
Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền,
biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ
vẻ “căm thù” gì hết. Nhiều khi anh em còn tiếp tế cho củ khoai, đẫn mía… Anh em
đội rau thì đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù
Fulro thông cảm nhau trong tình cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một
tuổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có
một anh còn trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt kích Mũ Xanh
(Green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”.
Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện
nghịch thường. Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh
nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta
thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ
lạ, cái thơ ngây man dã ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, củ sắn
thì anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo múc”.
Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng
phảng phất một nỗi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của
người da den ở Hoa Kỳ. Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt
được cá, lươn, ếch nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữa ăn. Ăn không hết anh
mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái
hũ sành này anh để ở dưới sàn, gần chỗ đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh thì
chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần không chịu nổi mới nói với anh
trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh
Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái
hũ mắm của anh đi chỗ khác. Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một
bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất bình. Cái hũ mắm càng ngày càng bốc mùi
càng nặng nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái
hũ mắm ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán
đã đóng cửa anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không còn ở chỗ
cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh
trực buồng. Anh này chạy bay đến chỗ anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo
lôi xềnh xệch hét lên: “Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you…
(Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy, đứng dậy, định
can ra, anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận đẩy anh Fulro già ngã chúi, kéo
áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết
sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú. Bỗng
có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lĩnh biệt kích dù Nguyễn
Hữu Luyện. Không biết rằng một chiêu thức Judo hay cầm nã thủ tuyệt vời nào,
hai tay anh Fulro điên loạn đã bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không
thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: “Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét
lên: “It’s nona your business” (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn
tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng gì. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết”.
Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mãnh lực gì mà sau đó
thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nhìn xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện
dừng tay khóa nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi”.
Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm,
hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu
sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù
chính trị với tù Fulro tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng không ngờ ngược lại,
nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro biệt
kích Mũ Xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy” ở nơi thủ lĩnh Biệt Kích Dù Nguyễn
Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu
Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện gì để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện
“accent”. Có khi anh ta còn đem tới củ khoai, đẫn mía nữa nhưng theo như cựu
lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.
Sau khi những tấm hình của vợ con anh
nhờ một anh em Biệt Kích khác được gửi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữa mới hỏi
Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có quà riêng của gia đình””. Trầm ngâm một
lát, Nguyễn Hữu Luyện mới nói: “Thực tình tôi không nghĩ là vợ con tôi còn đó,
đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về tôi có nhờ anh em kín đáo
đi tìm hộ… Rất may là đã tìm ra. Vợ con tôi đã rời Sàigòn, xuống Cần Thơ sinh
sống. Tôi cũng đã dự phòng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em,
họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đã chết. Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là
hết, phải không anh. Không phiền ai, không gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ
con tôi còn nghĩ đến tôi, còn đợi chờ tôi thì đó là ơn riêng của Chúa đã ban
cho. Nhưng tôi đã nói trước là vợ con tôi nếu còn đó, khi nhận được tin tôi thì
không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư, nhận quà rồi là tôi phải
trả lời. Làm sao mà mình không thương vợ, thương con mình cho được. Xưa nay mấy
chục năm ở các trại tù, mình là thằng trọc đầu, trên không chằng, dưới không rễ,
họ không nắm mình vào đâu được. Bây giờ mình thương vợ mình, thương con mình,
họ đọc thư, họ biết như vậy thì mình không sống yên được đâu anh ơi. Họ không
hành được mình, bây giờ họ hành vợ con mình để bắt mình quy phục thì làm sao
đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là vì thế…”
Đứng vững không lùi
Có lẽ trại Tân Kỳ trước đây đã xây
dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại còn một số cây cổ thụ còn sót lại. Ở
cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ
Nguyễn Du đã nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người
buồn, (một lũ tù nhân rài rạc đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người
thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây gì mà khẳng khiu, trơ trụi, không
còn một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như
một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời. Xưa nay cây
thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho
bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió mát. Ở đây thì ngược lại, cây đa
già trơ trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng
của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc
cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn
gió đang rình mồi, những hốc tối mò làm liên tưởng tới hang ổ của lũ cáo, chồn,
rắn, rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây này nghe nói đã có hơn
một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng bình dân
gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu
cuộc sống giống như mình để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.
Hôm ấy vào khoảng cuối tháng ba năm
1983. Trời dù đã cuối xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn còn buốt giá.
Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất
trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ nơi cuối sân
tập kết, phía cây đa. Mọi người nhìn lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba
của cây đa trụi lá, vươn cổ ra hò hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây
hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu…” Cán bộ trực trại vội
vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt: “Anh kia, anh chửi ai”” – “Tao chửi
bây, chửi tổ cha tụi bây”. Một anh công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo
“culat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên, mọi
người giật mình nhưng nhìn lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa… Người
đứng trên cây, nhìn kỹ, cổ đã quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành
cây cao cạnh đó. Người đó nói như gầm thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi
thắt cổ”. Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống. Người
đứng trên cây tiếp tục chửi bới, tiếp tục hò hét trong khi cán bộ trực trại hấp
tấp đi ra trước sân tập kết, vội vã thổi còi lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa
xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một anh bạn tù. Các đội hôm
nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe
những lời chửi rủa tận từ kia. Anh em xì xào “Ai đấy nhỉ”” – “Nghe như tiếng
Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng Bình, Quảng Trị” – “Đúng hắn
rồi còn ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần”.
Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân
tập kết trở lại vắng người, im ắng. Tiếng chửi rủa của thiếu tá địa phương quân
Th. vẫn còn róng tả: “Tộ cha bây, bây giết vợ tao, giết con tao”. Mấy tên làm
việc trong trại như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không
ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng
nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay “Tội anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà
con trai mới lớn lên ở nhà phải đi “nghĩa vụ” sang Campuchia. Anh vừa nhận tin
con trai mới chết, chết mà không mang được xác về. Vợ anh ta là cô giáo, nghèo
sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không
đủ nuôi con, làm gì có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở
nhà vợ anh ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em
trai út khốn thay lại bị bịnh tâm thần ngơ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một
cô con gái út mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con… Anh
ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậy…”
Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi
bới hò hét. Nhưng tiếng hò hét, chửi bới thưa dần vì không còn “đối tượng”. Vào
khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa
nói: “Anh Th. có chuyện gì xuống đây tôi giải quyết”. – “Bắn cho tôi một phát
đi, tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù.
Hình như y đi tìm một người nào đó. Tôi được nghe nói là trung tá công an đi
tìm đại úy Biệt kích dù Nguyễn Hữu Luyện. Trời đã gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi
cơn điên vẫn đứng ở trên cây, cổ quàng sẵn vào một vòng dây thừng oan nghiệt.
Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn
Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện gì với nhau không rõ. Nhưng sau đó người
tủ nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái vòng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo
xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống dưới đất và dìu anh ta vào
trong lán. Không biết người thủ lĩnh Biệt Kích Dù kia đã nói những gì, đã làm
thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.
Những ngày tiếp sau đó cả trại Tân
Kỳ nín thở theo dõi hậu quả đến với người tù cựu thiếu tá địa phương quân. Hậu
quả đầu tiên là biến chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán
khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên
chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất
của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái
thân quen vừa tạo lập đã mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù
nhân ăn ở trong một tình trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.
Sau vụ biên chế này tôi vẫn làm công
tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một
chuyến GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội
chạy ra xem có gặp lại người quen” Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn
cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công Giáo từ trại Bình Đà
ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng Tư
1982 đã từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội
trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T..
Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói: “Xã hội tù xoay chuyển vòng
tròn. Mình lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.
Nhưng cái mừng của người bạn cũ
không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983) chuyến xe GMC
lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù chuyển kỳ
này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vã. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn
tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đã cùng tôi trải
qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nhìn thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy
theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người
tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến
nay thấm thoát đã 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại
trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện ở hải ngoại tình cờ đọc đến những dòng này, nếu
các anh biết được tin gì về người bạn tù khốn khổ của chúng ta thiếu tá Th. địa
phương quân xin các anh vui lòng cho tôi biết.
Đặc biệt về người tù kiệt xuất
Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều
tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tròn. Một buổi sau khi anh cho xem tấm
hình con gái anh bữa lấy chồng đang cúi lạy trước chân dung người cha đã khuất
(là anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra
chuyện này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, mình xét ra cũng chỉ làm
nhiệm vụ của một người lính tình nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy
luật của nó là thế thì mình đành phải chịu, thưa anh”.
Nhớ lời nhắn nhủ của anh nên mấy năm
nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đã muốn lắm, muốn được kể
chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù
bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại mãi. Bây giờ tôi được biết rõ là anh đã
tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em
đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ
tưởng đã nằm im trong cát bụi quên lãng bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên
bữa nay tôi mới dám viết ít dòng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại
nói ra những điều tai nghe mắt thấy. Già rồi chỗ nhớ chỗ quên, anh thứ cho
những điều sai sót. Anh và đồng đội đi tù gần một phần tư thế kỷ, cách biệt hẳn
với xã hội loài người, tụi tôi đi tù sau anh mười mấy năm chỉ được ở bên anh
một thời gian ngắn vài ba năm cho nên những điều tôi nhớ lại, viết ra chỉ là
một phần nhỏ trong suốt cuộc đời đi tù dài dằng dặc của các anh. Ở trong tù
trước sau anh luôn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy QLVNCH… tôi chưa
thua các anh…”. Cái mặt trận mà một phần tư thế kỷ qua anh luôn luôn đứng vững
không lùi, không đổi thay, không khuất phục phải chăng là mặt trận bảo vệ cho
phẩm giá con người.
Phan Lạc Phúc
(Trích Bè bạn gần xa – Nxb Văn Nghệ, 2000)
(Trích Bè bạn gần xa – Nxb Văn Nghệ, 2000)