04 June 2016

HẢI ĐĂNG - Nguyễn Giao Kỳ Trung

Đăng ngồi trên boong tàu, cúi đầu nhìn Bảo Nhi, cô gái đang nằm trong lòng mình. Nàng vừa bị say sóng, vừa bị bệnh nặng nên mấy ngày qua, nằm mê man trong hầm tàu. Cả hai lần tàu bị hải tặc tấn công, nàng vẫn bất tỉnh, không hề hay biết chuyện gì đã xảy ra.  Đăng đưa mắt nhìn quanh quất. Chung quanh Đăng, xác người nằm la liệt. Máu chảy loang lỗ trên sàn tàu, bây giờ đã bắt đầu đông lại thành những vũng lớn, nhầy nhụa, tanh tưởi. Đăng lắc đầu ngao ngán; hơn phân nữa đám dân tỵ nạn trên tàu nằm trong đám xác này. Đăng tự hỏi không biết có bao nhiêu người đã chết thật sự và bao nhiêu người vẫn còn sống. Không nghe thấy tiếng rên rỉ, Đăng biết có hỏi cũng bằng thừa; nếu có người chưa chết thì với những nhát dao mác trí mạng trên người, chắc người ấy cũng chẳng sống thêm được bao lâu.
Đăng lại nhìn xuống hầm tàu. Phân nửa dân tỵ nạn còn lại đang nằm ở đấy. Khác với đám trên boong tàu, đám trong hầm tàu đa số là đàn bà con gái. Suốt mấy ngày hải trình từ Việt-nam đến đây, đám dân tỵ nạn khốn khổ trên tàu phải trải qua nhiều cơn gió bão. Trên những con sóng cao như những ngọn đồi nhỏ, chiếc tàu tỵ nạn giống như một chiếc lá giữa trận cuồng phong, tròng trành, lảo đảo, nhô lên, hụp xuống, nghiêng bên này, ngã bên kia. Đám đàn bà con gái, vì yếu sức, bị say sóng nặng nề, ói mửa liên miên. Suốt ba ngày, họ không ăn uống được gì nên cả bọn lã người ra, nằm bất động bên nhau trong hầm tàu giống như cá trong một lon cá hộp. Tuy không bị đâm chém, nhưng số phận cũng họ chẳng khác gì đám tỵ nạn trên boong, chỉ còn nằm chờ chết mà thôi.
Hai ngày qua, tàu của Đăng đă đụng độ với hải tặc hai lần rồi. Lần đầu tiên xảy ra chiều hôm qua. Sau mấy ngày gió bảo, sóng yên biển lặng trở lại, mọi người tưởng đã hết cơn hoạn nạn. Không ngờ, một chiếc tàu đánh cá Thái không biết từ đâu chạy đến, ghé sát vào tàu của Đăng. Một đám đàn ông từ tàu Thái nhảy sang tàu tỵ nạn, tay vung dao, mác, miệng hò hét loạn xạ. Bọn Đăng không có ai hiểu tiếng Thái, nhưng ai cũng biết là, khi nhảy qua tàu tỵ nạn, đám người này không còn là ngư phủ hiền lành lương thiện nữa. Trên tàu Đăng, không một ai chống cự. Đám hải tặc dồn hết mọi người trên tàu về một phía. Sau khi lục lọi khắp tàu tìm của, chúng lôi từng người tỵ nạn ra, lột hết tất cả những gì quý giá người ấy đang mang trên người. Ngoài việc cướp bóc tài sản, đám hải tặc không phuơng hại đến người tỵ nạn trên tàu, nhưng trước khi bỏ đi, chúng xuống hầm mày, cắt bỏ ống dẫn dầu khiến tàu của Đăng bị chết máy ngay giữa biển. Sau khi hải tặc bỏ đi, mấy mươi người tỵ nạn trên tàu sống qua một đêm vừa mừng vừa sợ; sợ vì không biết tàu sẽ trôi dạt về đâu còn mừng vì cho dù bị mất của nhưng họ vẫn còn giữ được mạng sống. Nhưng nỗi vui mừng được sống sót đó cũng không kéo dài được lâu. Gần trưa hôm nay, một chiếc tàu đánh cá Thái khác chạy đến, cập vào tàu tỵ nạn. Đám dân tỵ nạn trên tàu đứng yên, chờ đợi. Mình đâu còn gì để cho chúng cướp nữa mà sợ; chúng lục lọi, thấy không có của cải gì sẽ bỏ đi, vậy là yên thân. Không ngờ đám hải tặc lần này khác hẳn với đám hôm qua, hung ác man rợ như một đám dã thú. Vừa nhảy qua tàu tỵ nạn, chúng đã vung dao, vung mác chém loạn xạ. Mấy người đàn ông đứng gần đó vừa đưa tay ra định phân trần thì đã bị chúng chém ngã quay ra tại chỗ. Sau đó, bọn hải tặc chia làm hai nhóm, một nhóm nhỏ đi lùng bắt đàn bà con gái trên boong tàu tỵ nạn lôi về tàu hải tặc, còn nhóm kia đi chém giết những người còn lại. Lúc ấy, đám đàn ông trên tàu tỵ nạn mới hiểu rõ. Thì ra, hai đám hải tặc này là cùng một phe. Đám ngày hôm qua đi cướp của rồi phá cho tàu tỵ nạn không chạy được để đám hôm nay đến giết người, cướp gái. Họ biết, nhưng đã quá trễ. Sau mấy ngày lao đao vì sóng gió, họ tuy là đàn ông nhưng người nào người nấy đều kiệt sức, bây giờ lại đụng độ với hải tặc mà trên tay không có lấy một tấc sắt. Chẳng bao lâu, tất cả những người còn lại trên boong tàu tỵ nạn, đàn ông, đàn bà già, và con nít, tất cả đều bị hải tặc sát hại.
Lúc đám hải tặc thứ nhì đang hăng máu chém giết trên boong tàu, Đăng đang cuống cuồng lo lắng cho Bảo Nhi dưới hầm tàu. Nghe tiếng quát thét, tiếng kêu khóc van xin, tiếng gào rú của người bị thảm tử từ trên boong tàu vọng xuống, Đăng biết là nguy rồi. Đăng vội vã bỏ Bảo Nhi ra, nhìn quanh quất rồi chụp đại một miếng gỗ trên sàn tàu tạm dùng làm vũ khí. Đăng định chạy lên trên thì vừa lúc năm tên hải tặc từ trên boong ùa xuống. Đăng nhờ lợi thế bất ngờ, dùng miếng gỗ đánh gục tên hải tặc đi đầu, cướp dao của nó rồi mở cuộc hỗn chiến với bốn tên còn lại trong hầm tàu chật hẹp. Nhờ giỏi võ, Đăng chém được ba tên nữa, nhưng chính bản thân Đăng cũng bị hai vết chém khá sâu ở đùi và vai phải. Tên hải tặc sống sót bỏ chạy lên trên, miệng kêu cứu inh ỏi. Ba tên đồng bọn của nó trên tàu hải tặc chưa biết làm gì, thì Đăng cũng vừa khập khiễng đuổi tới. Vút một tiếng, lưỡi dao từ tay Đăng bay tới, ghim sâu vào lưng tên hải tặc. Nó lảo đảo vài giây rồi ngã xuống, nằm gục bên những người tỵ nạn mà trước đó không lâu, nó đã góp tay chém giết. Đồng bọn của nó trên tàu hải tặc đang định nhảy qua tàu tỵ nạn thấy nó chết thì thất kinh, nhảy lùi ra sau. Tiếng máy  tàu nổi lên, rời chiếc tàu hải tặc rời tàu tỵ nạn, chạy xa dần, xa dần.
Sau trận huyết chiến, Đăng nhịn đau, bế Bảo Nhi lên boong tàu, đặt cô bé vào lòng mình, rồi ngồi dựa vào thành tàu, canh chừng đám hải tặc. Thỉnh thoảng, Đăng dõi mắt về chiếc tàu hải tặc. Nó vẫn còn đó, không bỏ đi cũng không tiến lại gần. Bọn chúng đang tính chuyện gì đây? Vừa hỏi, Đăng đã có ngay câu trả lời: chúng đang chờ viện binh. Điều này thì sắp có một trận tử chiến với hải tặc rồi.  Ngay trong lần tấn công tàu tỵ nạn lần thứ nhì, ý định của đám hải tặc đã rất rõ ràng; sau khi cướp của, bắt gái, chúng sẽ giết sạch những người còn lại rồi nhận chìm tàu tỵ nạn để không còn một nhân chứng, một dấu vết gì về hành động dã man của chúng.
Từ xa xa, đám hải tặc vẫn có thể nhìn thấy Đăng, nhưng chắc chúng không thể nào tưởng tượng được là năm tên đồng bọn của mình bị chết trong tay một người tỵ nạn. Giải thích hợp lý nhất mà bọn chúng có thể có được là trên tàu tỵ nạn vẫn còn nhiều người đàn ông có thể chống trả; Đăng ngồi trên boong làm mồi nhử, trong khi đám đàn ông kia thì phục trong hầm tàu chờ chúng đến. Như vậy, hải tặc sẽ không tấn công cho đến khi nào chúng cảm thấy đủ sức đè bẹp những người tỵ nạn trên tàu, không để cho họ có một sức phản kháng nào.
Nghĩ đến đây, Đăng cười khổ. Sau trận huyết chiến khi trưa, một phần vì mất máu, một phần vì hai vết thương trên người hành hạ, Đăng bây giờ đã kiệt lực rồi. Đừng nói đến viện binh với dao búa trong tay làm gì, bây giờ chỉ có một tên hải tặc với hai bàn tay không Đăng cũng không đủ sức đánh trả. Đăng rùng mình. Bọn chúng có viện binh, còn Đăng thì chỉ một thân một mình. 
Mình phải tìm một cái gì để chống lại bọn chúng. Đăng nhẹ nhàng đặt Bảo Nhi xuống sàn tàu, rồi nghiến răng nhịn đau, bò xuống hầm tàu. Đăng mò mẫm quanh quất một hồi nhưng chẳng tìm thấy được một vật gì khả dĩ có thể dùng làm vũ khí để một mình có thể chống cự lại cả đám hải tặc.  Đăng bổng nhìn thấy một cái chai thủy tinh khá lớn nằm gần máy tàu . Cái chai được bịt nút bần, bên trong chứa đầy một chất lỏng màu vàng đậm. Đăng suy nghĩ rồi hiểu ngay. Chủ tàu đã chuẩn bị cho chuyến vượt biên này một thời gian rất lâu. Để tránh sự theo dõi của Công an, mọi thứ, đặc biệt là xăng dầu, phải được tích trữ mỗi lần một ít. Cái chai này có lẽ trước đó dùng để trữ nước mắm hay nước uống cần cho những chuyến ra biển đánh cá nhưng sau đó chủ tàu đổ xăng dầu vào, nhét nút cẩn thận rồi đem chôn dưới cát cho đến ngày vượt biên mới đào lên. Đăng nhìn cái chai đăm đăm; một ý nghĩ bỗng hiện ra trong đầu. Không nói không rằng, Đăng nhịn đau khệ nệ ôm cái chai rồi vừa lết vừa bò, mang cái chai lên boong tàu. Đăng đến bên xác tên hải tặc, mò mẫm trong túi áo quần nó một hồi rồi moi ra một cái hộp quẹt máy.  "May quá, đây rồi", Đăng reo nhỏ. Rồi Đăng rút lưỡi dao đang cắm sau lưng tên hải tặc, dùng nó để cắt áo tên hải tặc thành mấy mảnh vải dài. Xong xuôi đâu đấy, Đăng mang mọi thứ bò về bên cái chai. Đăng mở nút chai, đổ một ít dầu lên mấy mảnh vải. Rồi Đăng nhét mấy mảnh vải ướt dầu nữa trong nửa ngoài vào trong chai. Cái chai lúc ấy trông như một cái đèn dầu lớn với mấy cái tim đèn chìa ra ngoài miệng chai.  "Xong xuôi", Đăng thầm nhủ.  "Chỉ cần đốt lên rồi ném vào hầm tàu của chúng". Đăng gật gật đầu có về hài lòng.  "Bọn chúng mà không thành heo quay thì cũng chỉ có đường làm mồi cho cá mập". Nghĩ đến đó, Đăng co tay theo tư thế hai tay bưng cái chai nặng hất tung về phía trước. Nhưng tay vừa cất lên, Đăng đã nhăn mặt kêu lên một tiếng. Vết chém bên vai phải bây giờ đã cầm máu, nhưng chỉ một động tác nhẹ cũng đủ làm Đăng đau đớn kịch liệt. Đăng lắc đầu thở dài. Điệu này thì chỉ còn cách dụ hết bọn chúng qua tàu mình rồi đốt tàu để cho chết hết cả đám. Đăng lại lắc đầu. Không được. Hải Đăng đấu với hải tặc, chết theo hải tặc thì không sao, nhưng còn Bảo Nhi thì sao đây?
Đăng bò đến bên Bảo Nhi rồi bế nàng vào lòng. Hải Đăng, hải tặc, Bảo Nhi. Đăng cúi nhìn người con gái đang nằm thiêm thiếp trong lòng mình. Bất giác, Đăng nhớ lại lần đầu hai người gặp gỡ và câu nói của Thiếu tá Quận trưởng lúc đó.  "Mi tên là Hải Đăng, nhưng coi bộ mi nhìn con Bảo Nhi lom lom, tau thấy mi giống hải tặc hơn". Đăng mỉm cười, nhắm mắt hồi tưởng. Mới đó mà đã bốn năm rồi...

***
Lần đầu tiên khi Đăng đến trình diện, Thiếu tá Quận trưởng chỉ hỏi có mấy câu ngắn ngủi, gọn lỏn.
"Cậu là cháu Trung tá Hùng?"
"Dạ, Thiếu tá"
"Cậu biết lái xe jeep?"
"Dạ, Thiếu tá"
"Cậu chịu làm tài xế?"
"Dạ, Thiếu tá".
Thiếu tá Quận trưởng gật đầu.  "Được, cậu đi tìm cái gì để ăn đi, một giờ chiều đến đây đưa tôi đến Đồn 40"
"Dạ, Thiếu tá", Đăng nhanh nhẩu trả lời.  "Nhưng..."
Thiếu tá Quận trưởng nhíu mày . "Cậu lôi thôi quá, còn nhưng nhị gì nữa?"
"Dạ em không biết Đồn 40 ở đâu"
Thiếu tá Quận trưởng cười xòa.  "Tưởng gì. Cậu theo tỉnh lộ đến cuối phố sẽ gặp một con đường đất đỏ bên tay trái. Chạy hết đường đó là tới đồn. Mất khoảng 1 giờ". Ông nhìn Đăng, nheo mắt rồi nói tiếp.  "Nếu không cán phải mìn hay bị Vi Xi phục kích".
Chiều hôm đó, Đăng lái xe đưa Thiếu tá Quận trưởng, một người lính cận vệ và một người lính truyền tin đến Đồn 40. Đường núi quanh co, lồi lõm, bụi đỏ tung mù trời. Đăng vừa chú tâm lái xe vừa thầm nghĩ. "Cha nầy chịu chơi thiệt. Không sợ mìn, không sợ Việt cộng, lại chịu để cho thằng chân ướt chân ráo như mình làm tài xế". Cũng may, như lời Thiếu tá Quận trưởng nói, một giờ sau, cả bọn đến đồn bình yên.
"Có teo không?", Thiếu tá Quân trưởng hỏi Đăng.
"Dạ không", Đăng vừa cười vừa trả lời. "Mạng Thiếu tá quý hơn mạng em. Thiếu tá không sợ, chẳng lẽ em lại sợ"
Thiếu tá Quận trưởng gật đầu, tỏ vè hài lòng. "Chịu chơi lắm". Ngay lúc ấy, người đại đội trưởng chỉ huy tiền đồn và mấy người lính khác cũng vừa bước đến. Thiếu tá Quận trưởng dặn Đăng và hai người lính trên xe. "Ba người ở đây chờ tôi. Chiều nay có lẽ mình sẽ về trễ". Ông nhìn Đăng rồi nói tiếp. "Càng hay. Tôi muốn xem tài lái xe đường núi ban đêm của cậu".
Tối hôm ấy, khi cả bọn về đến quận lỵ thì trời đã tối sẫm. Đăng vừa ngừng xe trước tư thất của quận trưởng thì cửa đã mở. Vợ Thiếu tá quận trưởng từ bên trong chạy ra."Anh về trễ làm em lo quá", bà nói. Nhìn thấy Đăng, bà hỏi. "Anh lại có tài xế mới?"
Thiếu tá Quận trưởng gật đầu cười. "Đúng vậy. Cháu Trung tá Hùng đó. Chịu chơi lắm". Rồi ông quay sang hỏi Đăng. "Cậu mới đến, đã có chỗ ở chưa?"
"Dạ chưa, Thiếu tá"
Vợ Thiếu tá Quận trưởng chỉ hai người lính trong xe. "Cậu làm tài xế cho Thiếu tá, vậy thì cũng như hai anh này. Ở đây vẫn còn chỗ; cậu ở luôn đi, tiện hơn"
Đăng lí nhí cám ơn. Hai người lính từ sau xe, nhảy xuống rồi biến dạng. Đăng tắt máy xe rồi lẽo đẽo theo hai vợ chồng Thiếu tá Quận trưởng vào dinh. Ba người đến phòng ăn. Trên bàn, cơm nước đã dọn sẵn. Một người con gái trẻ đang ngồi chờ.
"Hai mẹ con em chờ anh cả tiếng đồng hồ rồi đấy", vợ Thiếu tá Quận trưởng cười nói. "Em bảo con gái cưng của anh ăn trước, nhưng nó không chịu, muốn ăn cùng lần với ba".
"Con gái cưng của anh?", Thiếu tá quận trưởng vừa cười vừa ngồi xuống ghế.  "Bộ nó không phải là con gái cưng của em nữa hay sao?"
Đăng mỉm cười. Nhìn gia đình Thiếu tá Quận trưởng hạnh phúc, Đăng rất ngưỡng mộ. Vợ Thiếu tá Quận trưởng quay sang Đăng rồi vừa cười vừa chỉ xuống chiếc ghế trước mặt Đăng. "Ngồi xuống ăn cơm chung đi"
"Da, không dám, thưa bà Quận truởng"
Vợ Thiếu tá quận trưởng cười xòa.  "Ổng làm quận trưởng chớ đâu phải là tui. Cháu Trung tá Hùng thì cũng như là cháu của tui. Gọi là bác đi". Bà chỉ tay vào chồng giới thiệu.  "Ổng tên Phúc, còn bác tên Hạnh. Hạnh Phúc, tên bác đi trước tên ổng như vậy có nghĩa là bác oai hơn ổng". Cả hai vợ chồng cùng cười. Bà lại chỉ tay vào cô
gái rồi nói tiếp. "Còn con nhỏ này là Bảo Nhi". Bà lại nhắc. "Con ngồi xuống đi"
Đăng "dạ" một tiếng rồi rụt rè ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Bảo Nhi. Cả hai cùng ngước mặt lên nhìn nhau rồi cùng kêu "Ủa" một tiếng.
"Thật sự mi tên chi?", Thiếu tá Phúc quay sang hỏi Đăng.
"Dạ em tên...ý, không phải, tôi tên..., ý, lại không phải nữa,... con... con...tên là Đăng. Nguyễn Hải Đăng".
Điệu bộ lúng túng của Đăng làm ba người kia cười nghiêng ngã. Thiếu tá Phúc nín cười rồi nói.  "Mi lôi thôi quá; ba hồi xưng em, ba hồi xưng tôi, rồi cuối cùng thì lại xưng bằng con, vậy là nghĩa lý gì?"
Đăng đỏ mặt lúng túng chưa biết trả lời như thế nào thì bà Hạnh đến cứu nguy. "Con đừng lo", bà nói.  "Khi ổng xưng tau mi với con thì tức là ổng xem con là người nhà rồi"
"Thật sự mi tên Hải Đăng?", Thiếu tá Phúc lại hỏi.
Không biết ý Thiếu tá Phúc muốn gì, nhưng sau khi nghe vợ ông ta giải thích, Đăng mạnh dạn trả lời.  "Dạ, Thiếu tá. Thật sự con tên là Hải Đăng".
Thiếu tá Phúc lắc đầu. "Tau thấy không phải vậy", ông nói. "Mi tên là Hải Đăng, nhưng coi bộ mi nhìn con Bảo Nhi lom lom, tau thấy mi giống hải tặc hơn".
Cả ba người trong gia đình Thiếu tá bật cười. Bảo Nhi nói. "Sao hôm nay ba ăn nói kỳ quá. Cái gì mà nhìn lom lom!".
"Bộ không phải sao?". Thiếu tá Phúc nhìn con gái rồi vừa cười vừa hỏi. "Bộ con đã quen với thằng hải tặc này rồi hả?"
Bảo Nhi đỏ mặt lắc đầu.  "Đâu có, con đâu có quen"
Thiếu tá Phúc nhìn con gái rồi vừa cười vừa hỏi tiếp. "Không quen, vậy sao khi con và nó thấy mặt nhau thì cả hai đứa đều kêu "Ủa"?"
"Sáng nay con có gặp ảnh, nhưng gặp đâu phải là quen", Bảo Nhi đáp.
"Nó mới chân ướt chân ráo đến đây làm sao con gặp nó được?"
"Sáng nay con đi học", Bảo Nhi giải thích. "Khi đi ngang qua bến xe thì bị năm sáu thằng cà chớn chận lại chọc ghẹo. Con chưa biết phải làm sao, thì may có ảnh đến can thiệp"
"Rồi sao nữa?"
"Rồi bọn cà chớn bỏ chạy hết và con tiếp tục đi đến trường".  Bảo Nhi nhìn Đăng rồi cười nói tiếp. "Còn ảnh đi đâu con cũng không biết".
Thiếu tá Phúc nhìn Đăng chầm chầm. "Mi làm sao mà khiến cho bọn du đảng đó bỏ chạy hết?"
Đăng cười. "Dạ, con chỉ thuyết phục bọn chúng đừng chọc ghẹo đàn bà con gái"
"Thuyết phục?", Thiếu tá Phúc trợn mắt hỏi. "Bộ mi ăn nói giỏi đến vậy sao?"
"Không phải đâu ba", Bảo Nhi vừa cười vừa chen lời. "Ảnh đánh cho bọn chúng đứa nào đứa nấy bò lê bò càng. Con thấy cũng sợ xanh mặt luôn đó".
Thiếu tá nghe con gái nói, càng ngạc nhiên hơn. "Trời đất, một mình mi đánh ngã cả bọn năm sáu thằng du đãng. Bộ mi biết võ hả?"
Đăng cười. "Dạ, con có học qua chút chút". Rồi Đăng đỏ mặt, cúi đầu nói tiếp.  "Đó cũng là lý do tại sao con rớt Tú-tài".
Bà Hạnh nãy giờ ngồi lắng nghe, bây giờ góp chuyện. "Con rớt Tú-tài vì mê học võ?"
"Dạ", Đăng cười đáp.  "Con chỉ giỏi môn Toán và Lý thôi, còn những môn khác thì con ghét cay ghét đắng như ghét bọn du đãng hồi sáng". Đăng ngừng, rồi vừa cười vừa tiếp lời.  "Khác ở chỗ là chúng đánh con chớ không phải con đánh chúng".
Cả hai vợ chồng Thiếu tá Phúc đều bật cười. Bảo Nhi nhìn Đăng rồi vừa cười vừa nói. "Toán và Lý thì em dốt đặc cán cuốc".
Thiếu tá Phúc nhìn Đăng rồi gật gật đầu.  "Mi ngon thiệt; mới vừa chân ướt chân ráo tới đây đã biểu diễn một màn anh hùng cứu mỹ nhân rồi".
Cả Đăng lẫn Bảo Nhi đều đỏ mặt. Thiếu tá Phúc nói tiếp. "Thôi được, tau là quận trường, lấy công làm tư một chút chắc cũng không sao. Bây giờ tau giao mi hai nhiệm vụ. Khi tau cần đến đồn, xã, thì mi làm tài xế cho tau". Ông đưa tay chỉ Bảo Nhi rồi tiếp."Khi tau ở quận không đi đâu thì mi làm tài xế cho con nhỏ nầy"
Bảo Nhi đỏ mặt, cúi đầu mỉm cười. Thiếu tá Phúc nhìn Bảo Nhi, cười rồi nói tiếp. "Khi mi làm tài xế cho nó, ngoài việc trị du đãng, mi cũng phải trị luôn cái dốt Toán và Lý của con nhỏ nầy". Ông quay sang Đăng. "Mi có làm được không?".
"Dạ chắc là được", Đăng cười đáp.  "Nhưng cũng cần nghe ý kiến của Nhỏ Cưng nữa..."
"Nhỏ Cưng là ai mà phải nghe ý kiến?", Bảo Nhi buột miệng hỏi.
Bà Hạnh cười ngất. "Là con đó chớ ai. Nhi là con nhỏ, Bảo là quý, là cưng. Bảo Nhi là Nhỏ Cưng đó cô nương!"
Bảo Nhi đỏ mặt cúi đầu, nhưng rồi lại ngước mắt nhìn Đăng, ánh mắt hân hoan. Bà Hạnh nhìn chồng rồi vừa cười vừa hỏi.  "Ông để nó làm tài xế cho Bảo Nhi, bộ ông không sợ nó thành hải tặc hay sao?"
Thiếu tá Phúc cũng cười.  "Bà đừng có lo. Nó mà thành hải tặc thì tui cũng có cách biến nó thành hải cẩu liền".

***
Nhớ đến đây, Đăng bật cười khẻ. Ngay đêm hôm ấy, Đăng trở thành một thành phần của gia đình Thiếu tá Phúc. Đêm ấy cũng là lần đầu tiên trong một thời gian rất lâu Đăng cảm nhận được sự ấm áp của gia đình. Ngày xưa, Đăng là con một, được ba má hết mực cưng chiều. Nhưng cả hai người đều bất hạnh qua đời khi Đăng mới được mười tuổi. Đăng được cậu, lúc ấy chỉ mới là Trung úy, đem về nuôi dưỡng. Trung úy Hùng rất thương Đăng, nhưng ông là sĩ quan tác chiến, nên không có ở nhà thường xuyên. Vợ ông ta tuy không ghét bỏ Đăng, nhưng đối với Đăng không nồng nàn bằng con mình, nên tuy còn nhỏ, Đăng đã thấy một ranh giới rõ rệt giữa mình và mấy người con của bà. Chín năm qua, Đăng sống lặng lẽ, không than vãn, không đòi hỏi một điều gì. Vì bối cảnh, Đăng đi học võ, dùng việc tự mình luyện võ ở sau vườn, hay đến võ trường đấu võ với bạn bè để giải khuây. Và do hoàn cảnh ăn nhờ ở đậu ở nhà cậu, Đăng không nuôi hy vọng vào học Đại học sau khi xong Tú tài. Đăng chỉ mong đổ Tú tài để có thể được tuyển mộ vào trường Võ bị Đà lạt, hay vào Trường Sĩ quan Thủ đức. Nhưng giấc mộng đó cũng không thành. Rớt Tú tài, Đăng nản chí, ghi danh gia nhập Biệt Kích Dù. Trung tá Hùng biết chuyện, muốn bảo toàn chút máu huyết của chị mình, liền ngăn cản. Ông sắp xếp với bạn ông là Thiếu tá Phúc, để Đăng gia nhập Địa Phuơng Quân rồi về làm tài xế cho Thiếu tá Phúc. Không ngờ, việc sắp xếp này khiến Đăng có được một mái ấm gia đình và có thêm ba người thân. Từ đêm đó về sau, vợ chồng Thiếu tá Phúc xem Đăng như con, còn Đăng cũng quý trọng ông bà, xem ông bà như cha mẹ ruột của mình. Riêng đối với cô bé nhí nhảnh khả ái Bảo Nhi, thoạt đầu Đăng xem như một đứa em gái bé bỏng mà Đăng hằng mơ ước được có...

***
"Em cấm anh từ nay về sau không được mở miệng gọi em là Nhỏ Cưng", Bảo Nhi nói với Đăng trong lần đầu tiên Đăng đưa cô bé đến trường.
"Anh đóng miệng lại rồi gọi em là Nhỏ Cưng có được không?", Đăng cười hỏi.
Bảo Nhi cười khúc khích rồi đỏ mặt, lắc đầu. "Cũng không được luôn".
"Sao khó quá vậy cô nương?"
Bảo Nhi đỏ mặt, cúi đầu.  "Người ta đã mười sáu tuổi rồi. Gọi người ta là nhỏ nầy nhỏ nọ làm người khác nghĩ em là một đứa con nít".
Đăng gật gật đầu.  "À, anh hiểu rồi. Té ra em muốn người khác nghĩ em là một  bà già".
Bảo Nhi bật cười lớn hơn. "Không phải vậy", nàng nói. "Anh diễu dỡ ẹt".
Ngay lúc đó, xe đến trước trường. Đăng ngừng xe rồi nói với Bảo Nhi. "Chiều nay anh đón em ở đây".
Bảo Nhi gật đầu. Nàng bước xuống xe rồi dặn.  "Anh nhớ đó,không được gọi em là Nhỏ Cưng". Nàng đi mấy bước rồi ngừng lại, hăm doạ.  "Anh mà không nghe lời em, em sẽ mét ba để ba biến Hải Đăng thành hải cẩu đó".
Từ ngày hôm đó, Đăng và Bảo Nhi gặp nhau thường xuyên. Trong những chuyến đưa đón đó, hai người như hai con chim nhỏ, ríu rít nói cười. Thoạt đầu thì Đăng xem Bảo Nhi như em gái, nhưng càng gần gũi, càng thân mật nhau, tình cảm Đăng dành cho Bảo Nhi càng biến dạng. Chẳng bao lâu, Đăng biết mình đã yêu cô bé hồn nhiên ngây thơ này rồi. Yêu, nhưng Đăng không dám thổ lộ cho bất cứ ai. Đăng thấy mình như cây tầm gởi, bám vào thân cây cổ thụ là gia đình của Bảo Nhi để có được chút hạnh phúc. Đăng cần hạnh phúc đó như ăn như thở, nên không thể để mất nó. Lại nữa, tuy Bảo Nhi rất vui mỗi khi hai đưa gần nhau, Đăng không biết cô bé nghĩ gì về mình, xem mình như thế nào, là anh, là bạn, hay chỉ là một người tài xế tầm thường.
Một hôm, Đăng đến đón Bảo Nhi tan trường. Vừa bước lên xe, cô bé đã liếng thoắng. "Anh biết không, mấy con nhỏ bạn của em khen anh đẹp trai"
Đăng gật gật đầu. "Điều này thì anh tự biết từ lâu rồi"
Bảo Nhi cười khúc khích. "Ham lắm, em chỉ nói đùa mà anh tưởng thiệt". Nhưng rồi cô bé lại quay sang Đăng rồi nói. "Bọn nó muốn nhờ em làm mai đó"
Đăng lại gật gật đầu. "Điều này thì anh cũng đoán được từ lâu rồi"
Bảo Nhi lại cười. "Nhìn cái mặt anh kìa. Mới nghe người ta muốn làm mai cho đã kênh kênh lên rồi. Xấu ỉn mà tưởng đẹp, thấy dễ ghét".
Đăng cười hỏi Bảo Nhi.  "Em định làm mai anh cho cô bạn nào của em đây?"
Bảo Nhi đỏ mặt, im lặng một lát rồi nói nhỏ.  "Em không làm mai anh cho ai hết"
Đăng lại cười.  "Sao lại không chịu làm mai? Bạn bè nhờ giúp mà không làm thì ăn nói làm sao với người ta đây?"
Bảo Nhi ngần ngừ rồi nói.  "Em bảo tụi nó là anh đã làm tài xế vĩnh viễn cho một người rồi nên em không làm mai được"
"Người nào vậy em?", Đăng hỏi.
Bảo Nhi đỏ mặt lắc đầu. "Không nói"
Đăng ngẫm nghĩ rồi đáp. "Anh biết rồi, là Thiếu tá. Đúng vậy, anh đang làm tài xế
cho Thiếu tá, anh cũng kính phục Thiếu tá, vậy chắc làm tài xế cho Thiếu tá suốt đời được".
Bảo Nhi cười khúc khích. "Không phải ba"
Đăng cười. "Vậy thì chắc là Đại tá Tình trưởng. Ông này oai à nghen, có thể làm tài xế cho ông suốt đời được".
Bảo Nhi lắc đầu dẫy nẫy. "Không phải. Anh đừng giả ngu nữa"
Đăng cười. "Vậy em cho anh biết anh sẽ làm tài xế suốt đời cho ai đây?"
Bảo Nhi cúi đầu nói nhỏ. "Anh đã biết rồi sao lại bắt người ta phải nói ra"
Đăng nhìn Bảo Nhi. Cô bé đang thẹn thùng, trông dễ thương khôn tả. Bất giác, Đăng đưa tay nắm tay Bảo Nhi. "Vậy anh làm tài xế cho em suốt đời nghe".
Bảo Nhỉ cúi đầu, mặt đỏ như gấc chín. Cô không trả lời, cũng không rút tay về. Hai đứa nắm tay nhau suốt một đoạn đường dài. Một lúc lâu sau, Bảo Nhi ngước nhìn Đăng. "Từ nầy về sau em không học Toán và Lý nữa"
Đáng ngạc nhiên. "Sao vậy?"
Bảo Nhi nhìn Đăng, cười khúc khích. "Đã có người giỏi Toán và Lý làm tài xế suốt đời cho mình thì em phải học hai môn này làm chi cho khổ thân"

***

Đăng mỉm cười, lòng chan chứa một tình yêu thắm thiết, êm đềm. Từ đó, Đăng và Bảo Nhi yêu nhau.  Đăng cũng hiểu vì sự khác biệt trong bối cảnh của hai đứa, một người lính tài xế không cha không mẹ và một tiểu thư con gái của quận trưởng, cuối cùng rồi mối tình của mình và Bảo Nhi cũng chẳng đi tới đâu; khi Bảo Nhi xong Tú tài, vào Đại học cũng là một lúc mối tình đó sẽ chấm dứt. Nên Đăng trân quý những giây phút hai đứa bên nhau. Đây là mối tình đầu của cả hai đứa, say đắm ngọt ngào, nhưng cũng rất trong sáng, thánh thiện. Đăng yêu thương, tôn quý Bảo Nhi như một nữ thần. Suốt hơn một năm bên nhau, tuy nồng nàn, khắn khit, Đăng không dám có một hành động vượt quá giới hạn nào. Đăng không biết vợ chồng Thiếu tá Phúc có biết chuyện yêu đương của hai đứa hay không, nhưng Đăng nghĩ là họ biết. Họ là cha mẹ mà, lẽ nào không rõ tâm tình của con gái mình. Tuy nhiên, họ không có một hành động cấm đoán hay chận trước, ngăn sau nào. Điều này chứng minh là họ đã hoàn toàn tin tưởng vào tư cách và phẩm hạnh của Đăng. Sự tin tưởng nầy làm Đăng cảm kích không cùng, và nhất quyết sẽ không làm một điều gì phụ lòng họ.
Đăng cúi nhìn cô gái đang nằm trong lòng mình.  "Bảo Nhi... Nhỏ Cưng...", Đăng gọi khẽ. "Trời ơi, tỉnh lại đi em, tỉnh lại đi để nghe anh nói trước khi quá trễ". Mặc cho Đăng gọi, Bảo Nhi vẫn nằm yên, mê man bất động, mặt xanh mướt, hơi thở yếu ớt. Đăng đưa tay vén tóc, vuốt má Bảo Nhi, rồi nâng tay nàng lên áp vào má mình. Nhìn Bảo Nhi, Đăng ứa nước mắt. Mái tóc thề đen huyền, mềm như nhung ngày nào bây giờ đỏ hoe, khô cằn. Khuông mặt trắng như tuyết với đôi má đỏ hồng vì thẹn thùng từng làm tim Đăng đập sai nhịp bây giờ cháy nắng, nâu sẫm. Còn hai bàn tay, hai bàn tay ngà mềm mại với mười ngón tay búp măng ngày xưa Đăng ve vuốt, ngắm nhìn không chán, bây giờ chai đá đi rồi.  "Em ơi, tội tình chi mà phải chịu khổ nạn thế này", Đăng gọi khẽ. Ba năm sau một cuộc đổi đời, từ đỉnh cao của yêu thương và hy vọng, hai đứa rơi, rơi mãi xuống một hố tuyệt vọng sâu thăm thẳm...
***
Nửa giờ sau khi lệnh đầu hàng được đọc trên đài phát thanh, một đám lính Bắc xông vào tư thất quận trưởng, bắt giữ Thiếu tá Phúc. Trước khi bị chúng dẫn đi, Thiếu tá Phúc quay nhìn Đăng.  "Hải Đăng, tau giao hai mẹ con con Bảo Nhi cho mi".
Bà Hạnh và Bảo Nhi bị trục xuất; hai mẹ con chỉ có 15 phút để nhặt nhạnh vài vật dụng cần thiết rồi bị áp giải ra khỏi quận đường. Khi họ đến cổng, đã có Đăng đứng chờ. Đăng và hai mẹ con Bảo Nhi tứ cố vô thân, không một chỗ cư ngụ. Bà Hạnh và Bảo Nhi là đàn bà con gái yếu đuối, nay bị đại nạn bất ngờ mất nhà mất cửa, mất chồng mất cha, nên đi theo Đăng như hai cái xác không hồn, mọi chuyện nhất nhất để Đăng quyết định.
Đêm hôm đó, ba người phải ngủ dưới một gầm cầu. Đăng vào xóm mua được mấy củ khoai, mang về đốt lửa lên nướng. Bảo Nhi cắn một miếng, rồi nhăn mặt đặt củ khoai xuống.  "Ăn không nổi cũng phải ráng mà ăn đi con", Bà Hạnh bảo con. "Hoàn cảnh nầy mà  có được khoai để ăn là phước đức lắm rồi". Bà thở dài rồi nói tiếp. "Không biết ba con bây giờ có có khoai để mà ăn hay không!". Nói xong, bà gục đầu xuống đầu gối, khóc âm thầm.  Đăng cầm tay Bảo Nhi. "Xin lỗi em, anh chỉ tìm được có thứ nầy thôi". Bảo Nhi lắc đầu, cầm củ khoai đưa lên miệng. "Không, ngon lắm, em ăn được mà". Nàng gượng cười, nhưng nụ cười méo xệch, và nước mắt lại chảy đầm đìa trên má
Hôm sau, Đăng đưa hai mẹ con Bảo Nhi về quê cũ của mình. Ở đó vẫn còn có ngôi nhà của ba má Đăng, nhưng từ ngày hai người qua đời, nhà đóng cửa bỏ hoang. Ba người khi thì đón xe đò, khi thì đi bộ, ban ngày đi, tối gặp đâu ngủ đó. Từ quận đến quê Đăng chỉ hơn năm mươi cây số, nhưng ba người phải mất mười ngày mới đến nơi. Mười ngày đầy dẫy gian truân, khổ cực. Phần đói, phần mệt, giày rách, chân bị bong gân, Bảo Nhi nhiều lần muốn bỏ cuộc. May là nàng có Đăng bên cạnh an ủi vỗ về, và bà Hạnh luôn miệng khuyến khích. "Con là con gái cưng của ba con, đúng như tên Bảo Nhi của con. Mình nhất định phải sống để chờ ngày ba con về".
Ngôi nhà của ba má Đăng vẫn còn đấy, nhưng hoang tàn, đổ nát như một ngôi nhà ma. Đang đứng tần ngần nhìn ngôi nhà, rồi nhìn hai mẹ con Bảo Nhi. "Không sao đâu con, chỗ này ở được mà", bà Hạnh nói. Rồi bà quay sang Bảo Nhi. "Ráng đi con, mình phải sống chờ ngày ba con về".
"Mình phải sống chờ ngày ba con về", câu nói nầy được lặp đi lặp lại như một điệp khúc suốt hai năm kế tiếp. Hai năm dài đăng đẳng, hai năm của nhọc nhằn, khổ nhục. Đăng đăng ký Bảo Nhi là vợ, và bà Hạnh là mẹ vợ của mình. Tuy Đăng chỉ là lính quèn, nhưng vì lấy vợ là con của sĩ quan Ngụy, nên cũng như hai mẹ con Bảo Nhi, bị xem là phần tử xấu, bị giám sát gắt gao. Suốt một năm đầu, đủ mười hai tháng, ba người ban ngày làm việc quần quật ngoài đồng, buổi tối phải đi học tập, kiểm thảo. "Mình phải sống để chờ ngày ba con về". Bảo Nhi theo gương Đăng và mẹ, nghiến răng chịu khổ nhọc, không than van trách oán. Những ngọn đòn thù của chế độ mới không làm cho họ gục ngã, đầu hàng như chế độ đã mong muốn. Trái lại, họ đứng vững hơn, kiên cường hơn. Tuy hai đứa ít có cơ hội tâm tình, nhưng hoàn cảnh làm tình cảm giữa Đăng và Bảo Nhi trở nên đậm sâu hơn nhiều, rất nhiều.
"Khi xưa, hai bác đã biết con và Bảo Nhi thương nhau rồi", bà Hạnh nói với Đăng."Bây giờ, con đã đăng ký Bảo Nhi là vợ của con. Trên lý, trên tình, hai con đã là vợ chồng rồi. Khi nào hai đứa thành vợ chồng thật sự đây?"
"Con định chờ đến ngày Thiếu tá trở về, để con có thể xin phép cả Thiếu tá lẫn bác
cho hai đứa con lấy nhau", Đăng trả lời. "Con nghĩ làm vậy Bảo Nhi sẽ vui hơn".
"Con lúc nào cũng nghĩ cho Bảo Nhi", bà Hạnh ứa nước mắt. "Đứa con gái của hai bác thật là có phước".
Nhưng "ngày ba con trở về" đã không bao giờ xảy ra. Sau khi bị bắt, Thiếu tá Phúc bị biệt giam trong một trại cải tạo nổi tiếng sắt máu. Bà Hạnh và Đăng đôn đáo tìm kiếm, xin xõ, nhưng mãi hai năm sau mới được phép gặp ông. Lần thăm nuôi đầu tiên, bà Hạnh nhận không ra chồng mình. Hai năm trời bị giam cầm, tra tấn, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, ông chỉ còn là một cái thây ma biết đi. Mấy tháng sau, bà Hạnh được báo tin là ông đã qua đời. Khi bà đến nhận xác chồng, người ta bảo bà là ông đã được phục hồi quyền công dân. Chẳng có ai buồn giải thích cho bà rõ là ông cần cái quyền công dân ấy để làm gì.
Xác Thiếu tá Phúc được mang về an táng sau vườn, bên gốc một cây xoài lớn. Sau ngày ông mất, bà Hạnh trở nên ít nói. Những khi không có việc đồng án, bà ra ngồi dưới gốc xoài bên mộ ông.Tuy không tâm sự nhiều với bà, nhưng cả Đăng và Bảo Nhi đều hiểu rõ là lòng bà rất đau đớn. Mấy năm cắn răng chịu khổ nhục nuôi hy vọng được gặp lại chồng, bây giờ bà chỉ còn có một nỗi tuyệt vọng không bến không bờ mà thôi.
Một hôm, có một thanh niên đến thăm Đăng. Hai người đứng ngoài vườn nói chuyện một hồi lâu. Sau khi người thanh niên ấy bỏ đi, Đăng vào bếp tìm bà Hạnh. "Thưa bác con có chuyện muốn nói riêng với bác"
Hai người ra sau vườn, ngồi bên mộ Thiếu tá Phúc. Đăng cho bà biết người thanh niên ấy là Cường, anh em cô cậu của mình, con của Trung tá Hùng. Cường biết một tổ chức đưa người vượt biên bằng đường biển. Biết Đăng là người gan dạ lại giỏi võ, Cường đến rủ Đăng đi cùng.
"Người ta đòi bao nhiêu vậy con?", bà Hạnh hỏi.
"Dạ Cường nói mình phải trả trước mỗi người một cây vàng", Đăng đáp. "Sau khi nhận vàng, người ta sẽ cho mình biết địa điểm gặp mặt. Người ta sẽ báo cho mình biết trước một tuần lễ nhưng không xác định ngày giờ; mình phải đến địa điểm đó mà chờ. Đến ngày vượt biên, người ta sẽ đến đưa mình lên tàu"
"Có tin họ được không con?", bà Hạnh hỏi
"Dạ, Cường là con sĩ quan Ngụy cùng hoàn cảnh như mình nên con nghĩ là có thể tin họ được. Có điều con không biết tìm đâu ra ba lượng vàng đây"
"Con ngồi đây chờ bác", bà Hạnh nói xong tất tả vào nhà. Một lát sau bà trở lại. "Bác trai con làm quận trưởng thanh liêm, nên gia tài của hai bác chỉ có bấy nhiêu thôi", vừa nói bà vừa đặt lên tay Đăng hai lượng vàng. "Bác định chờ ngày đám cưới của hai đứa bác sẽ cho Bảo Nhi để làm của hồi môn. Thôi bây giờ bác cho trước vậy"
Đăng cầm hai lượng vàng, ứa nước mắt. "Còn bác thì sao? Bác không đi với tụi con sao?"
"Bác già rồi, đi để làm gì. Bác muốn sống mấy ngày cuối đời bên bác trai của con".
Đăng trao vàng cho Cường để trao cho chủ tàu, nhưng suốt ba tháng sau đó không nhận được tin tức gì. Đang lúc Đăng thấy chua xót vì nghĩ là mình đã bị người ta lường gạt, thì Cường xuất hiện. "Một tuần nữa, đến địa điểm", Cường nói một câu gọn lỏn rồi bỏ đi.
Tối hôm ấy, bà Hạnh làm một mâm cơm sơ sài, đặt trước bàn thờ Thiếu tá Phúc. Bà gọi Đăng và Bảo Nhi đến rồi nói. "Tối nay má làm lễ cưới cho hai con".
Bảo Nhi tròn mắt ngạc nhiên. "Có chuyện gì mà làm lễ cưới bất ngờ vậy má?".
Bà Hạnh cười hiền hòa. "Má già rồi, sống nay chết mai, nên má muốn thấy hai đứa con nên vợ nên chồng để cho cả ba lẫn má sớm nhận lạy của thằng rễ".
Bảo Nhi định hỏi nữa, nhưng bà nói. "Tối nay là đêm vui của hai đứa con. Có gì ngày mai mình sẽ nói tiếp".
Đăng và Bảo Nhi làm theo lời bà dạy, lạy bàn thờ Thiếu tá Phúc rồi lạy bà. Sau khi ăn tối, chờ lúc Bảo Nhi dọn dẹp bát dĩa trong bếp, Đăng nói nhỏ với bà. "Cám ơn má đã thương con, cho con chính thức được làm con của má. Con định vài ngày nữa sẽ đi, nhưng chỉ lo…"
"Con lo là con Bảo Nhi không chịu bỏ má ở lại một mình?", bà Hạnh mỉm cười. "Con đừng lo, sáng mai má sẽ khuyên nó"
Sau đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ dạy trễ. Hai người tìm quanh quất trong nhà không thấy bà Hạnh thì chạy ra vườn. Xác bà Hạnh treo lũng lẳng trên một nhánh xoài thấp trước mộ Thiếu tá Phúc. Trên áo bà có ghim một mảnh giấy trên đó có ghi nguệch ngoạc mấy hàng chữ. "Má đi theo ba con đây. Hai đứa ráng thương yêu nhau. Ba má sẽ phù hộ cho các con"

***




Cô gái nằm trong lòng Đăng cựa người làm Đăng giật mình, trở về với thực tại. Đăng cúi xuống nhìn rồi mừng rỡ, kêu lên. "Bảo Nhi, may quá, em đã tỉnh lại rồi".
Mắt Bảo Nhi từ từ mở lớn. Thấy mặt Đăng, nàng cười yếu ớt. "Em còn sống hay sao? Em đang ở đâu đây?".
Đăng vui vẻ, gật đầu. "Em vẫn còn sống. Bọn mình vẫn còn ở trên tàu"
"Sao em nghe im lặng quá vậy anh?", Bảo Nhi lại hỏi. Nàng đưa mắt nhìn quanh rồi kêu lên. "Anh ơi, sao có nhiều người chết quá vậy?"
Đang ngần ngừ một lúc rồi trả lời. "Bảo Nhi, hai ngày nay tàu mình bị hải tặc tấn công. Đa số người trên tàu bị chúng giết rồi"
Bảo Nhi đưa lưỡi liếm quanh miệng rồi lại kêu lên. "Em thấy miệng mình mặn mặn, lại có mùi tanh tanh. Máu phải không anh?"
Đăng không trả lời. Bảo Nhi run giọng hỏi. "Em bị thương phải không anh?"
"Không, không, em đâu có bị thương", Đăng vội vã trả lời
"Anh đừng có dấu em nữa", Bảo Nhi nức nở. "Em biết em bị thương, máu chảy ra miệng, sắp chết đến nơi rồi "
Câu nói của Bảo Nhi làm Đăng cuống cuồng. "Đúng là máu, nhưng không phải là máu của em". Đăng ngừng một lát rồi dịu dàng nói. "Em mê man không ăn không uống mấy ngày rồi, and sợ em chống không nổi nên cho em uống máu. Anh nghĩ trong máu có chất bổ dưỡng, may đâu..."
"Anh lấy máu của a...", Bảo Nhi nói chưa dứt câu thì đã nghẹn ngào, người nàng
rung lên bần bật. Đăng vuốt tóc nàng rồi dịu dàng nói. "Khi trưa đánh nhau với hải tặc, anh bị thương nhẹ, chảy máu chút đỉnh. Anh thuận tay hứng một tí cho em uống". Đăng nhìn Bảo Nhi mỉm cười rồi nói. "Đừng có suy nghĩ viễn vông nữa. Anh không cho em uống thì máu cũng chảy ra ngoài mà"
Bảo Nhi quay người úp mặt vào ngực Đăng. "Anh ơi, sao anh ngu quá vậy", nàng rên rỉ. "Rủi anh có mệnh hệ nào thì làm sao em sống cho nỗi"
Đăng đưa tay vỗ vỗ nhẹ vào đầu Bảo Nhi. "Khờ quá, anh mình đồng da...". Câu nói đang dở dang thì bị cắt ngang bởi tiếng động cơ từ xa vọng lại. Đăng đẩy nhẹ Bảo Nhi ra, định đứng dậy nhưng chỉ mới lom khom thì đã thấy đầu váng, mắt hoa nên lại ngồi phệt xuống sàn tàu.
"Anh ơi, anh có sao không?", Bảo Nhi lo lắng hỏi.
"Anh không sao, chỉ thấy hơi choáng váng", Đăng đáp. "Có lẽ vì bị mất máu".
Nói xong, Đăng vịn vào thành tàu, lảo đảo đứng dậy. Quanh Đăng, trời đã về chiều. Cuối chân trời, mặt trời đỏ như máu hạ dần xuống gần mặt nước. Đăng nhìn về phía chiếc tàu hải tặc. Một chiếc ca nô đang cập vào tàu. Từ ca nô, hai người leo lên tàu hải tặc. Tiếng máy lại nổ lên giòn dã; chiếc ca nô quay đầu, chạy xa dần. Chẳng bao lâu, nó mất dạng ở cuối chân trời.
Dưới ánh trời chiều, Đăng không nhìn rõ mặt mày hai tên hải tặc mới đến, nhưng vóc dáng chúng trông vạm vỡ. Ba tên hải tặc trên tàu đưa tay chỉ về phía tàu tỵ nạn. Hai tên mới đến đưa cao tay lên. Trên tay mỗi đứa cầm  một khấu súng dài.
Đăng nằm xuống, bò về phía Bảo Nhi. "Bảo Nhi, em bò xuống hầm tàu mau lên".
"Có chuyện gì vậy anh?" Bảo Nhi run giọng hỏi.
"Hải tặc sắp đến rồi". Đăng nói nhỏ. Ngay lúc ấy, từ phía tàu hải tặc có tiếng động cơ nổi lên. Bọn chúng bắt đầu rồi, Đăng thầm nghĩ rồi giục. "Em xuống hầm tàu mau đi"
"Anh ơi, em sợ lắm", Bảo Nhi mếu máo. "Anh xuống hầm tàu trốn với em đi".
"Anh ở trên nầy chận bọn chúng lại, lát nữa anh sẽ xuống với em".
"Anh ơi, em sợ lắm", Bảo Nhi lặp lại. Rồi nàng khóc òa. "Anh ơi, anh đừng bỏ em bơ vơ".
Đăng vỗ về. "Đừng lo, anh sẽ không sao đâu". Rồi Đăng hôn nhẹ vào đôi má ướt đẫm nước mắt của vợ. "Anh sẽ không bao giờ bỏ em".
Tiếng động cơ của chiếc tàu hải tặc càng ngày càng gần. "Xuống hầm tàu đi Bảo Nhi", Đăng lại giục. "Đừng để anh phải phân tâm lo lắng cho em".
Bảo Nhi vừa bò vừa khóc. Đến miệng hầm tàu, nàng quay người lại. "Anh ơi, anh hứa sẽ không bỏ em".
"Anh hứa", Đăng đáp. Trong ánh sáng mờ mờ của buổi hoàng hôn, Bảo Nhi không thấy được hai dòng nước mắt đang chảy dài trên má Đăng.
"Bảo Nhi", Đăng gọi nhỏ. Từ trong hầm tàu có tiếng tiếng "Dạ" của Bảo Nhi.
"Bảo Nhi, anh muốn em hứa với anh là trong hoàn cảnh nào đi nữa, em nhất định phải sống; nhất định phải sống cho thật tốt".
"Anh ơi, định bỏ em thật sao ?", Bảo Nhi lại òa lên khóc.
"Anh sẽ không bao giờ bỏ em", Đăng đáp. "Bảo Nhi, hứa với anh đi".
"Em...hứa..."
Lúc ấy chiếc tàu hải tặc đã cập gần vào tàu Đăng. Năm tên hải tặc tay cầm đèn pin đứng trước đầu tàu, chuẩn bị nhảy sang tàu Đăng. Đăng bò đến gần, đưa tay trái ôm chặt cái chai, tay phải bật hộp quẹt đốt mấy mảnh vải ở miệng chai. Ngọn lửa bùng lên. Đăng nghiến răng nhịn đau, chịu bỏng, dùng hết tàn lực tung người lên nhảy qua tàu hải tặc.
Dưới hầm tàu tối om, Bảo Nhi không thấy gì cả. Nàng chỉ nghe tiếng người la ó và tiếng súng nổ giòn dã. Rồi nàng ngất đi.

***
"A, hay quá, cô đã tỉnh lại rồi", một giọng nói bằng tiếng Việt từ bên ngoài vọng vào làm cô gái giật mình. Nàng hé mắt nhìn; thoạt đầu cảnh vật chung quanh mù mờ như được che bằng một tấm màn mỏng, nhưng sau đó rõ dần, rõ dần. Nàng quay đầu sang bên trái rồi sang bên phải, và thấy mình đang nằm trên một chiếc giường nhỏ trong một căn phòng sơn màu xanh nhạt.
Một người đàn ông từ ngoài cửa bước vào phòng, tiến đến bên giường nàng. Cô gái chống tay định ngồi dậy nhưng thấy tay mình bị vướng một sợi dây. Nàng co tay muốn giật đứt sợi giây thì người đàn ông đã đưa tay, nhẹ nhàng ngăn cản. "Cô đang được chuyền nước biển. Cô đừng cử động kẻo trật kim ra ngoài".
Cô gái đưa mắt nhìn người đàn ông. Đây là một thanh niên trẻ, mặc áo choàng trắng. "Ông là ai? Tôi đang ở đâu đây?", nàng hỏi.
Người đàn ông mỉm cười. "Tôi là Bác sĩ Joel, người Pháp gốc Việt. Tên Việt của tôi là Nhân. Cô có thể gọi tôi là Bác sĩ Nhân".
Bác sĩ Nhân đưa nay bấm nút nâng giường để cô gái ngồi dậy rồi nói tiếp. "Tôi thuộc nhóm Bác Sĩ Không Biên Giới. Tôi tình nguyện theo tàu của một tổ chức thiện nguyện, ra biển Đông để cứu giúp người tỵ nạn. Cô đang ớ trong chiếc tàu đó. Thôi, để tôi khám cho cô đã rồi mình sẽ trò chuyện tiếp".
Cô gái ngồi lặng yên, nhìn Bác sĩ Nhân làm việc. Ông khám cho nàng cẩn thận rồi vui vẻ nói. "Tốt lắm. Cô bình phục nhanh hơn là tôi mong đợi. Cô chỉ cần nằm ở đây thêm một ngày nữa là có thể qua khu bên kia, sinh hoạt với các người tỵ nạn khác. Ông nhìn cô gái rồi hỏi. "Cô có gì muốn hỏi tôi không?".
"Dạ có", cô gái đáp. "Tôi bất tỉnh bao lâu rồi Bác sĩ?".
"Hai ngày một đêm ở trên tàu nầy. Trước đó thì tôi không rõ. Khi chúng tôi tìm thấy cô trên tàu tỵ nạn thì cô đã bất tỉnh rồi".
Cô gái ngồi lặng thinh một lúc rồi nói. "Tôi có thể hỏi bác sĩ thêm một câu nữa không?".
Bác sĩ Nhân mỉm cười. "Cô cứ hỏi. Mười câu cũng được".
Cô gái cười gượng. "Thưa bác sĩ, bác sĩ có thấy... chồng... chồng...". Nàng nói đến đó rồi nghẹn giọng, không thể nói tiếp.
Bác sĩ Nhân lắc đầu. "Cô là người duy nhất sống sót trên tàu tỵ nạn", ông nhỏ nhẹ đáp. "Xin lỗi cô".
Cô gái nấc lên một tiếng nhỏ. Bác sĩ Nhân nhìn nàng ái ngại. "Thật ra, ngoài cô ra, trong hầm tàu còn ba người phụ nữ khác vẫn còn sống. Chúng tôi đưa họ về tàu nầy, nhưng không cứu được nên đành phải thủy táng". Ông nhìn cô gái rồi nói tiếp. "Họ chết vì đói khát, kiệt sức".
"Còn mình sống nhờ được uống máu" cô gái thầm nghĩ. Bất giác, mắt nàng thấycay cay, lệ muốn trào ra.
Không để ý đến vẽ mặt thẩn thờ của cô gái, Bác sĩ Nhân kể tiếp. "Chúng tôi còn thấy bên tàu tỵ nạn có một chiếc tàu khác đang bốc cháy. Trên tàu có mấy cái xác cháy nám đen"
Cô gái kêu lên một tiếng nhỏ. Bác sĩ Nhân nhìn nàng rồi tiếp. "Chúng tôi nghĩ họ là hải tặc Thái đến cướp tàu tỵ nạn của cô, nhưng vì bất cẩn đổ dầu làm cháy tàu". Ông chép miệng. "Cũng may, mấy thùng dầu cặn trên tàu cháy lên khiến tàu hải tặc sáng rực như một ngọn hải đăng. Nhờ vậy chúng tôi mới thấy được và đến cứu được cô".
"Hải đăng?", cô gái hỏi nhỏ.
"Vâng", Bác sĩ Nhân đáp. "Giống hệt như một ngọn hải đăng"
"Hải đăng", cô gái lặp lại. "Hải Đăng!". Rồi trước cặp mắt ngạc nhiên của người y sĩ, nàng đưa hai tay lên bụm lấy mặt, khóc nức nở.

Nguyễn Giao Kỳ Trung
(01/2016)