Xuyên qua từng áng mây chĩu nặng hơi nước, những tia nắng đìu hiu của một buổi chiều như đang ngập ngừng bên ngoài khung kính. Bảo-Trân nghiêng một bên má sát vào mặt kính để nhìn lại phía sau. Thành phố đã chìm khuất, chỉ còn những đóm sáng ly ty từ những tòa buildings trên triền núi cao. Từ những triền núi, hơi lạnh toát ra, tạo thành những phiến sương buồn, che khuất những khe núi thâm u rồi bay lang thang trong vùng không gian im vắng để đợi chờ ánh hoàng hôn.
Nhìn vùng
không gian đẫm sương chiều, tự dưng Bảo Trân liên tưởng đến hình ảnh êm đềm của
một thành phố lạ lẫm, xa xăm. Nơi thành phố đó, khi chiều xuống, những màn
sương trắng đục cũng tỏa ra từ lòng núi; cũng vây quanh những tòa buildings cao nghệu; cũng bay lang
thang để tìm xem màn đêm về từ lối nào; cũng vượt lên đỉnh núi, hòa lẫn vào
mây, khiến cảnh sắc trở nên hùng vĩ và kỳ bí lạ lùng. Nếu phải so sánh những
điều khác biệt giữa hai thành phố, có lẽ Bảo Trân chỉ thấy, nơi thành phố đó,
những màn sương trắng đục thích lơ lững trên những nhánh sông cuồn cuộn phù sa.
Từ một trong
những nhánh sông cuồn cuộn phù sa, chiếc du thuyền nhỏ, Royal, trôi êm ả giữa
dòng, bỏ lại phía xa từng vùng ánh sáng rực rỡ của những thành phố kỹ nghệ và
những khu vực thương mại sầm uất.
Qua khỏi
thượng nguồn, sự phồn thịnh dọc hai bên bờ không còn nữa. Từ chiếc Royal nhìn
lên bờ, Bảo Trân thấy những thân người gầy gò trong những mảnh vườn cằn cỗi
đang từ từ lùi lại phía sau trong khi chiếc Royal xuôi giòng sông sâu, giữa hai
triền núi cao. Nhìn quanh, Bảo Trân chỉ thấy núi và núi. Núi chập chùng. Núi
vây quanh. Núi kéo dài đến vô tận. Núi đổi màu tùy theo độ cao và sự di chuyển
của hơi sương cùng ánh mặt trời. Sự đổi dạng và tuổi tác của những trái núi tạo
nên sự hùng vĩ, sự thướt tha hoặc sự cuồng nộ của dòng sông.
Dòng sông này
không có sự mênh mông bát ngát của sông An Giang, sông Triêm Ðức hoặc sông Ðà Rằng;
dòng sông này thiếu hẳn sự nên thơ nhưng đầy nguy khốn của sông Cái Lớn hoặc
sông Vàm Cỏ trong thời binh lửa; dòng sông này không mang nặng vết đau lịch sử
của một dân tộc như sông Gianh, sông Bến Hải và sông Thạch Hãn; dòng sông này
thiếu hẳn sự tươi trẻ và trữ tình của dòng Danube hoặc dòng sông Rhine bên trời
Âu; dòng sông này cũng không có sự kinh khiếp đầy huyền diệu của sông Hằng.
Dòng sông này thâm trầm, như một cụ Ðồ Nho, vì tích lũy nhiều điều huyền nhiệm
của đời, của thời gian và của thiên nhiên. Dòng sông này mang tên Dương Tử.
Khi ánh nắng
mai ló dạng cuối trời xa là lúc Bảo Trân thích thú nhìn dòng Dương Tử trườn
mình giữa hai vách núi thẳng đứng. Nhìn lên đỉnh núi, Bảo Trân thấy những cây
tùng, cây bách chễm chệ một vùng trời riêng để vui đùa với gió và tự tình với
mây. Dưới chân núi, nhiều người dân lam lũ đang còng lưng vét những hạt cát
hiếm hoi bên bờ sông để đem về xây những ngôi nhà nhỏ nhắn trên hóc núi cao
hoặc xây những cây cầu cheo leo, nối liền hai triền núi dọc bờ sông.
Trên mặt sông
đục ngầu màu đất đỏ, những chiếc du thuyền nhỏ vẫn ngược xuôi trong âm thanh vi
vu mệt mỏi của máy tàu. Âm thanh này và màu nước này gợi nơi lòng Bảo Trân hình
ảnh những dòng sông thấm máu và những cánh rừng tràm đầy mìn bẫy và hầm chông
khi chiến tranh còn lan tràn nơi vùng Quê Hương đầy khổ nạn. Khi mạch sông này
được đắp đập để mực nước sông dâng lên cả trăm thước thì cuộc sống nơi vùng Quê
Hương nghèo khó của nàng, phía hạ lưu, sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?
Trong khi Bảo
Trân trầm ngâm vì những ưu tư không thể giải đáp được thì có tiếng gõ cửa. Xoay
người lại, từ từ bước ra cửa, Bảo Trân nghĩ rằng người gõ cửa là Phong, nhưng
vẫn hỏi, vì thói quen về vấn đề an ninh:
- Ai đó?
- Anh. Anh sang rủ em lên sân tàu ngắm mặt trời lặn.
Quanh sân tàu rất nhiều du khách chụp ảnh và ngắm
nhìn những tòa nhà nhiều tầng được xây gần đỉnh núi để dân cư dời lên đó khi
công tác xây đập nước hoàn tất. Rồi đây sẽ có nhiều thành phố bị chìm lấp trong
dòng nước sâu. Không hiểu những người dân cần cù sẽ thích ứng được với hoàn
cảnh khắc nghiệt hay không; vì càng lên cao thời tiết càng lạnh và những vùng
đất xốp để trồng trọt càng hiếm. Nghĩ đến cảnh không biết bao nhiêu gia đình
phải dời lên núi cao, để bao nhiêu ruộng vườn, mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà và người thân
chìm sâu vào lòng nước, Bảo Trân thở dài, lòng đầy thương cảm.
Bảo Trân đang miên man suy tưởng, chợt nghe Phong
nói:
- Ở đây đông quá! Mình lên tầng trên, nhé.
Tầng trên ít người, có lẽ vì gió. Phong xoay hai
chiếc ghế nhựa để lưng ghế quay về hướng mặt trời rồi chàng và Bảo Trân ngồi
vào. Nhìn vùng không gian rộng lớn của sườn núi đối diện chan hòa trong ánh
nắng chiều, Phong hỏi:
- Màu nắng này có gợi trong hồn em chút gì không,
Bảo Trân?
Bảo Trân không vội đáp, lặng ngắm những thân người
gầy guộc đang hái bắp trên sườn núi và nhóm người khác đang chặt thân cây bắp,
bó lại từng bó. Và gần nơi đỉnh núi, Bảo Trân thấy mấy ngôi nhà ẩn mình trong
màu xanh biếc của cây rừng. Bảo Trân đáp:
- Dạ, màu
nắng này làm em nhớ những buổi chiều êm ả trên núi Pilatus ở Thụy Sĩ. Chỉ khác
một điều, trên triền núi Pilatus em thấy vài
trang trại và những chú bò thong dong nhơi cỏ. Nơi cổ của mỗi chú bò, người ta
cột một cái chuông nhỏ nên khi chú bò cử động tiếng chuông nghe leng keng.
Tiếng chuông này giúp cho người ta dễ tìm, nếu tối đến mà chú bò không về. Từ
những hang động nhân tạo trên đỉnh núi Pilatus, em có thể thấy, trong ánh nắng
vàng nhạt và từng cơn gió dìu dịu như hôm nay, những áng mây chiều chờn vờn bên
ngoài cửa hang. Cũng từ những hang động đó nhìn xuống, trên mặt nước xanh ngát
như biển khơi, em thấy vài chiếc du thuyền nhỏ, mang cờ hình chữ thập, trôi
lặng lờ trên mặt hồ Lucerne .
Nếu tinh ý, du khách có thể thấy hồ Lucerne
mang hình dáng chữ thập. Xa xa, chen chúc trong màu xanh của cỏ cây là màu đỏ
của mái ngói trên những ngôi nhà thờ cổ, với những tháp chuông cao vời vợi. Và
xa, xa tít đến cuối trời, màu xanh thẫm của phụ lưu hồ Lucerne len lỏi giữa màu trắng ngần của những
khe núi tuyết. Trên đỉnh núi, tuyết lấp lánh trong chút nắng hắt hiu muộn màng.
Trong khung cảnh như vậy mà nghe những
tiếng leng keng trỗi lên liên tục từ nhiều hướng khác nhau, tự dưng tâm hồn em
bâng khuâng, xao xuyến một cách lạ lùng. Bây giờ, nhìn hình ảnh trên triền núi
đối diện, ngoài chút bâng khuâng, xao xuyến, em còn cảm thấy như có điều chi
rưng rức chĩu nặng trong lòng.
- Như vậy là
tâm hồn em giao động nhiều hơn trước khung cảnh này, đúng không?
- Dạ, đúng.
- Tại sao?
- Cảnh đẹp
của thiên nhiên làm thỏa mãn tính hiếu kỳ của em. Nhưng điều làm cho em xúc
động lại là sự nghèo khó và nỗi bất hạnh của con người. Còn anh, anh nghĩ gì?
- Anh hả? Anh
thì anh nghĩ đến những buổi chiều có nắng vàng tỏa rộng trên sườn núi nơi đèo
Rù Rì hoặc lung linh trên rừng dừa nơi bãi biển tại trung tâm thể dục Ðinh Tiên
Hoàng, sau này đổi lại là trung tâm huấn luyện Biệt Ðộng Quân, ở Ðồng Đế, Nha Trang.
- Anh là bác sĩ Quân Y mà anh làm chi ở chỗ người ta
huấn luyện Biệt Ðộng Quân?
- Vì là Quân Y
cho nên Hè phải thụ huấn quân sự ở đó.
- Ô, thì ra vậy. Những buổi chiều như vậy anh nghĩ
gì?
- Anh cảm
thấy cô đơn lắm và: “Anh nhìn xa vắng,
ngàn thương nhớ. Em đã xa rồi, em
biết không?” (1)
Biết Phong
muốn gián tiếp gợi lại Cuộc Tình Xót Xa muộn màng giữa chàng và nàng, Bảo Trân
thoáng buồn:
- Anh đã hứa
với em rồi, anh nhớ không?
Phong đùa:
- Anh hứa gì?
Bảo Trân cả
tin, vội nhắc:
- Anh hứa sẽ
xem em như em gái thôi. Anh nhớ không?
Phong cười buồn,
im lặng. Một lúc lâu, Bảo Trân chuyển đề tài:
- Từ mấy hôm
nay anh có nhận biết được điều gì khác thường trong không gian mà chúng ta đã
đi qua không?
- Có. Anh cảm
thấy như thiêu thiếu cái gì đó, nhưng không biết là cái gì.
-Anh thử
tưởng tượng, nếu có vài cánh chim bay chầm chậm ngang triền núi đối diện thì...
Nét mặt Phong
tươi trở lại:
- Ðúng rồi.
Từ hôm đặt chân đến đất nước này anh chưa hề thấy bất cứ loài chim nào cả. Tại
sao?
- Em không
hiểu.
Vừa khi ấy,
Jason, hướng dẫn viên du lịch, bước lên khỏi bậc thang cuối cùng. Phong gọi
Jason, đặt câu hỏi bằng Anh ngữ; vì Phong biết tất cả hướng dẫn viên du lịch
tại Trung Hoa đều được chính phủ đào tạo và Anh văn là sinh ngữ chính. Jason
đáp:
- Tôi không
nhớ bác sĩ là người thứ mấy đã hỏi tôi câu này; nhưng tôi nhớ, khi tình hữu
nghị giữa Nga Sô và chúng tôi còn khắng khít, Nga Sô đã cho chính phủ của chúng
tôi vay một món nợ lớn. Nước chúng tôi đông dân nhưng nghèo, trả nợ không nổi.
Ðến lúc tình hữu nghị giữa hai quốc gia rạn nức, Nga Sô đòi nợ gắt gao quá,
chính phủ của chúng tôi ra lệnh mọi tầng lớp nhân dân phải chia xẻ những khó
khăn với quốc gia bằng cách dồn tất cả nỗ lực để tăng gia sản xuất, lấy gạo và
ngũ cốc trả nợ cho Nga. Nhưng trở ngại lớn của chúng tôi là: Sau khi gieo mạ và
hạt giống, chim ăn hết. Thế là chính phủ ra lệnh giết tất cả chim chóc để hoa
màu không bị hao hụt.
Bảo Trân ngạc nhiên:
- Làm sao có thể giết hết được tất cả chim chóc?
Jason cười:
- Chim muông cũng có linh tính và tiếng nói riêng.
Vì vậy, sau vài đợt bị lùng giết, lũ chim rũ nhau bay đi, không bao giờ trở
lại!
Bảo Trân chưa kịp nói chi thêm thì từ các máy khuyếch
đại âm thanh đặt quanh tàu vang lên lời nhắn của director Charles: “Thưa quý
bà, quý ông! Du thuyền của chúng tôi
sẽ dừng lại trong vài phút nữa. Quý vị nào đã ghi tên tham dự cuộc du ngoạn vào
sông Daning, xin chuẩn bị để thuyền máy đưa quý vị đi.”
Chiếc thuyền máy có cửa kính bao quanh rời sông
Dương Tử để tiến vào nhánh sông Daning đầy đá cuội. Dọc theo bờ sông Daning,
nơi những vùng đất chài cũng như trên triền núi cao, Bảo Trân chỉ thấy những
mảnh vườn tàn úa, như là vết tích còn lưu lại của mùa Ðông. Những người đang
làm vườn hoặc làm rẫy trên cao hay những người ngồi giặt quần áo ven sông, vội
dừng tay, nhìn đoàn thuyền máy với nét mặt và ánh mắt tràn đầy ước mơ.
Càng xa giòng Dương Tử bao nhiêu màu nước càng trong
trẻo và đáy sông càng lộ rõ bấy nhiêu. Ðá cuội dọc bờ sông trở nên nhẵn và láng
thêm. Trên những phiến đá cuội đó, những đôi chân trần khẳng khiu của mấy em bé
và của vài thanh niên, ngang người chỉ quấn một mảnh khố, cố chạy theo chiếc
thuyền máy để bán những cái chuông nhỏ bằng đồng, được chạm trổ chữ Nho và hình
tượng các vị Bồ Tát hoặc bán những cây gậy bằng gỗ được uốn cong một đầu và
cũng được chạm trổ rất công phu.
Thấy mấy em bé trai đen đủi cùng mấy cậu thanh niên
vấn khố, Bảo Trân chạnh nhớ đến vùng trời mờ sương bên quê nhà; nơi đó đàn ông
Thượng cũng vận khố, phụ nữ Thượng để ngực trần, mặc váy, và đeo những vòng
xoắn bằng đồng nơi hai cổ chân và hai trái tai được căng rộng ra. Họ thường đi
từng nhóm nhỏ. Ngày còn bé, Bảo Trân thích nhìn dáng họ chập chờn trong ánh
nắng chiều, bên những đồi trà xanh biếc của Ngoại. Cũng có lúc họ đem măng hoặc
ngũ cốc đến nhà đổi muối. Ngoại không đổi, lại bảo người giúp việc lấy muối đem
cho họ. Khi nào cũng vậy, nhận được chén muối họ cười hớn hở, để lộ hai hàm
răng đã bị cà thấp xuống, và họ líu lo một thứ ngôn ngữ không thể nào Bảo Trân
hiểu được.
Nụ cười của người Thượng ngày đó và nụ cười của
những người vận khố nơi đây, sau khi bán được món hàng, đều đượm nét ngây ngô,
mộc mạc mà người thị thành không làm sao có được.
Gió lùa mây thật thấp. Dòng sông trở nên hẹp và cạn
dần. Thuyền đã tắt máy để vài thanh niên lực lưỡng dùng sào chống. Mạn thuyền
cạ lên đá cuội, âm thanh nghe không êm ả tý nào cả. Bảo Trân thấy, từ trên mấy
đỉnh núi, nhiều chú khỉ đang xôn xao, có vẻ huyên náo lắm. Giữa lúc Bảo Trân
chưa hiểu dịch vụ du lịch đưa du khách vào đến cuối giòng Daning để làm gì thì
nghe giọng Jason:
- Những gia đình giàu mới có tiền chôn người thân
trên đó.
Từ nãy giờ chỉ để tâm ngắm cảnh lạ, Bảo Trân không
để ý đến lời dẫn giải của Jason. Bây giờ nghe ba tiếng “chôn trên đó”, Bảo Trân
ngạc nhiên, vội nhìn theo hướng ngón tay trỏ của Jason, và thấy, gần những đỉnh
núi cheo leo, nơi những khoảng núi bị lỡ, lộ ra màu đất đỏ hoặc vàng sậm, là
những cửa hang nho nhỏ; trong hang là quan tài của người chết. Bảo Trân tò mò
hỏi:
- Jason! Làm thế nào họ có thể đưa quan tài lên đến
đó để chuyền vào hang?
- Ðưa quan tài lên đến đỉnh núi rất khó khăn. Nhưng
họ trả tiền hậu hỷ thì cũng có người làm. Lên đỉnh rồi, họ sẽ thòng giây để
chuyển quan tài vào hang.
- Sau đó hang có được đóng cửa hoặc lấp lại không?
- Không.
Bảo Trân nhìn quanh và thấy hầu như nơi mỗi chỗ núi
lỡ đều được dùng làm nhà mồ không cửa. Nàng lại hỏi:
- Tại sao họ
không tìm đất để chôn mà lại lập những nhà mồ trong lòng núi, không cửa?
- Vì càng lên cao càng nhiều đá, không có đất.
- Thế sao họ không chôn nơi những vùng thấp?
- Ðây là vùng núi đá. Những
vùng thấp đất rất hiếm, chỉ để trồng trọt.
- Tình trạng
khai khẩn hiện nay đã khó khăn như vậy, khi kế hoặch xây đập nước thực hiện
xong, mực nước dâng cao cả hơn trăm thước nữa thì người dân canh tác bằng cách
nào để sống?
- Ðó là câu hỏi tôi không thể giải đáp được. Tôi
nghĩ “Trời sinh trâu, sinh cỏ.”
Nhìn ánh hoàng hôn loan nhè
nhẹ trong vùng không gian đìu hiu nơi chốn tận cùng của một nhánh sông, Bảo Trân
thầm nghĩ, đời sống của con người nơi đầu nguồn thì tùy thuộc vào Trời; còn đời
sống của những dân tộc ở cuối nguồn tại sao lại tùy thuộc vào người láng giềng
hung bạo, hẹp hòi, chỉ thích kiến tạo những đồ án vỹ đại để phô trương với thế
giới chứ không nghĩ đến nỗi đau khổ của con người do sự thực hiện những đồ án
đó tạo nên?
Ý nghĩ này, cách nay vài
hôm, lúc viếng thăm Vạn Lý Trường Thành, cũng đã thoáng qua trong hồn Bảo Trân.
Khi cùng Phong bước nhanh lên nhiều bậc cấp của một trong những kỳ quan của thế
giới, lòng Bảo Trân chỉ nghĩ đến sự chia xa, niềm đau thương, nỗi thống khổ
cùng máu, mồ hôi và nước mắt của hằng vạn người đã quyện vào với vôi, với cát
khi thực hiện kiến trúc vĩ đại này. Mỗi khi dừng lại nơi tháp canh nghỉ mệt,
trong sự buốt lạnh của từng cơn gió lùa vào, Bảo Trân tưởng như nàng có thể
nghe được tiếng oán than của những oan hồn đã bỏ thây vì sự hình thành của kỳ
quan này!
Ðang quan sát và suy nghĩ
vẩn vơ, Bảo Trân chợt cảm biết chiếc thuyền máy đã ủi bãi và một số ít du khách
đã lên bờ. Bờ, và cũng là điểm tận cùng của dòng Daning, chỉ là một vùng đất đá
bị nước xoi mòn, rơi khỏi triền núi. Theo thời gian, đất đỏ bị nước cuốn đi; và
sự di động liên tục của nước đã dũa mòn những góc cạnh của đá để ngày nay Bảo Trân
thích thú nghe âm vang của những viên đá cuội rạc rào dưới mỗi bước chân.
Hoàng hôn đã phủ kín cả vùng
không gian đậm đặc hơi nước. Bảo Trân thấy triền núi dọc hai bên bờ sông đã trở
thành màu xanh thẫm; trên nền xanh thẫm đó, những màn sương mỏng chờn vờn trông
như những áng mây, và ánh đèn leo lét phía xa trông như những vì sao lạc. Nơi
đỉnh núi cao, ánh trăng len lén xuyên qua những áng mây mờ. Bất chợt Bảo Trân
cất tiếng hát nho nhỏ, vừa đủ cho Phong nghe: “Qua những mùa trăng dáng em theo thời gian. Nhẹ lướt mơ hồ khi vàng úa trăng tàn. Sông nước mịt mùng xóa mờ một
kiếp tha phương giang hồ. Lệ tràn lên mi tình trong giấc mơ. Năm tháng phôi pha
bẽ bàng tình khúc ly tao cung đàn. Lệ tràn lên mi tình trong tiếng tơ. Ðêm nay
thông u sầu dưới trăng chốn đây nhưng nào, nàng đâu?...” (2)
Phong lắng nghe, lòng thầm
tiếc là chàng đã mất Bảo Trân suốt thời gian dài cho nên khoảng đời trai trẻ
Phong đã không hưởng được những giây phút lãng mạn, tình tứ và đầm ấm như thế
này. Bất ngờ giọng Bảo Trân vút cao: “...Ðêm
nay ánh trăng ngà lả lơi, trải trên cây rừng nhớ thương. Dưới ánh trăng u huyền
thông mơ reo...” Bảo Trân nhấn giọng ở chữ “lả” và chữ “trải” rồi chữ “nhớ”
rơi vào nốt Si bémol của bản nhạc
thuộc cung Ré Majeur khiến người nghe
cảm nhận được tất cả nỗi xót xa, u hoài.
Sau khi Bảo Trân ngưng hát,
Phong đọc khẽ hai câu thơ vừa mới lướt qua trong hồn chàng:
- Anh nghe em
hát, lòng xao xuyến. Trong cõi hồn em, anh ước mơ. (3)
Bảo Trân im lặng, cố nén sự
giao động bồi hồi từ trái tim đa cảm của nàng. Phong nhìn Bảo Trân bằng ánh mắt
chan chứa yêu thương.
Cũng với ánh mắt tràn đầy
yêu thương đó, tối đến, trong lúc say mê theo dõi chương trình nhạc cổ truyền
tại The Tang Dynasty, Phong cũng xoay nhìn Bảo Trân, khi đoàn nữ nhạc công xử
dụng nhạc cụ xưa để cùng tấu lên những hợp khúc cổ điển của nền âm nhạc Trung Hoa.
Từ khi thất vọng về mối tình
một chiều do sự ngây thơ của Bảo Trân, mỗi khi thấy phụ nữ chơi đàn, Phong lại
nghĩ đến nàng. Riêng Bảo Trân, mỗi khi nghe âm thanh của nhạc cụ nàng thường
chơi hoặc một ca khúc nàng thường hát, Bảo Trân cảm thấy như âm thanh ấy xuyên
qua lồng ngực, xoáy sâu vào trái tim đầy thương tích của nàng. Vì vậy, khi thấy
Phong nhìn nàng, Bảo Trân tưởng như Phong hiểu được tâm trạng của nàng cho nên
nàng mỉm cười, cảm thấy êm ái trong hồn.
Khi Phong và Bảo Trân trở
lại du thuyền Royal, ánh trăng đã khuất, máy tàu đã im, nhưng tiếng sáo Pai
Xiao vẫn như còn vương vấn trong sự trầm mặc của muôn loài. Trong sự trầm mặc
đó, mạch nước từ những dòng suối vẫn âm thầm tìm về đây, cùng nương nhau vượt
Three Gorges Dam đang xây để không còn bị gò bó theo những dãy núi đá, mà sẽ
được trải mình trong những cánh đồng xanh ngát dừa nước và mạ non.
Chiếc Royal đến Three Gorges
Dam khi những tia nắng đầu ngày làm long lanh những hạt sương còn đọng trên lá
của những cây cổ thụ nơi ngọn núi cao. Công tác đắp đập đã thực hiện được hơn hai
phần ba chiều ngang của dòng sông Dương Tử. Nước bị dồn về phần còn lại của
dòng sông nên nước chảy xiết, cuồn cuộn, xoáy sâu, tạo cảm giác bất an cho
những du khách nhát gan. Bảo Trân biết người Trung Hoa rất hãnh diện, vì đập
nước này sẽ là một trong những đập nước lớn nhất thế giới. Nhưng Bảo Trân không
hiểu người Trung Hoa sẽ nghĩ gì khi những dân tộc ở cuối nguồn, từ thế hệ này đến
thế hệ khác, sẽ ta thán vì mạch sống cứ cạn dần; vì nước mặn từ biển sẽ xâm lấn
vùng đất trồng hoa màu?
Qua khỏi đập nước, lưu lượng
của dòng sông trở nên dịu dàng, đằm thắm giữa những khu vực đông đúc dân cư.
Bất ngờ Bảo Trân nghe huyên náo cả một vùng và rồi, cùng một lúc, hằng triệu
triệu tấn khối nước từ Three Gorges Dam tràn về. Trong âm thanh cuồn nộ của
nước, Bảo Trân nghe không biết bao nhiêu tiếng kêu gào thảm khốc. Dù hạm trưởng
vận dụng tất cả khả năng để cố đưa chiếc Royal xuôi theo con nước, tránh rơi
vào vùng nước xoáy, Bảo Trân cũng vẫn nghe được tiếng cửa kính vỡ cùng với
tiếng kẻo kẹt của thân tàu. Nước sông dâng nhanh một cách đáng sợ. Từ phòng ăn,
Phong hối hả đưa Bảo Trân về phòng và dặn:
- Em ở trong này, không đi
đâu hết. Anh ra ngoài xem có ai bị thương, cần cứu cấp chi không, tý anh trở
vào hoặc nhờ người vào thăm chừng em.
Không đợi Bảo Trân đáp,
Phong bước ra ngay. Phong vừa xoay lại đóng cánh cửa xong, tấm kính nơi khung
cửa sổ vở tan. Nước bắn vào phòng. Trong nỗi hoang mang tột cùng, Bảo Trân chợt
nghe tiếng director Charles từ máy
khuyếch đại âm thanh: “Tất cả mọi người
chú ý! Chiếc du thuyền của chúng ta không thể tiếp tục chịu đựng cơn thịnh nộ
của thiên nhiên. Chúng tôi buộc lòng phải tấp thuyền vào một eo núi. Sau khi
thuyền tấp vào, bằng mọi phương tiện, tất cả chúng ta phải rời thuyền ngay lập
tức!” Nghe như vậy, Bảo Trân gập người xuống, nước mắt chan hòa với nước
sông, lòng quặn thắt nghĩ đến các con. Ngày trước, những lúc bị đời lừa đảo,
vùi dập hay những lúc buồn, cô đơn và chán nản, Bảo Trân thường nghĩ đến cái
chết như là một lối thoát. Nhưng bây giờ cận kề với cái chết, Bảo Trân lại hãi
sợ, lại muốn được sống để về gặp lại các con.
Ðang hướng tâm về Phật Bà
Quan Thế Âm với những lời cầu nguyện chân thành nhất, Bảo-Trân bỗng giật mình
kinh sợ vì sự xô lệch, chồng chềnh của đồ vật trong phòng. Vừa lúc ấy, Phong
xuất hiện, vội vã kéo Bảo Trân ra ngoài. Nhiều âm thanh lạ vang lên rất lớn khi
thân tàu vặn mình, cố trườn lên khóm đá. Mọi người xô đẩy nhau rời tàu.
Phong đưa Bảo Trân núp gió
bên hốc đá đen đủi. Bảo Trân hơi bớt sợ. Một lúc sau, nhìn quanh, Bảo Trân thấy
director Charles đang đi tìm để đếm
và ghi tên từng du khách. Bỗng Bảo Trân để ý và không hiểu tại sao vị hạm
trưởng và một người đàn ông lạ lại tiến về phía nàng và Phong một cách vội vã.
Sau khi bắt tay Phong và hỏi
thăm tình trạng sức khỏe của Phong và Bảo Trân, vị hạm trưởng nhìn Phong:
- Thưa bác sĩ, cuối đoạn
sông này có một trường tiểu học. Cơn nước lũ vừa rồi khiến nhiều em học sinh bị
nước cuốn đi và nhiều em bị thương. Ðây là ông hiệu trưởng ngôi trường đó. Ông
đến đây kêu cứu, vì ông nghĩ rằng trên du thuyền của chúng ta có thuốc và dụng
cụ y tế. Jason cho biết ông là bác sĩ cho nên chúng tôi mừng quá, vội đến nhờ.
Mong bác sĩ giúp cho.
Phong nhận lời ngay. Bảo Trân
tình nguyện theo giúp nhưng Phong không đồng ý. Mặc dù Bảo Trân viện dẫn nhiều
lý do, Phong cũng vẫn trấn an nàng:
- Anh đi vì bổn phận của một
người thầy thuốc. Anh không muốn em tháp tùng vì anh không biết tình trạng nơi
anh sắp đến như thế nào. Em ở đây cơ quan du lịch sẽ tận dụng mọi phương tiện
để đưa du khách về nơi an toàn. Còn anh, một mình anh, anh dễ xoay trở. Em hiểu
ý anh chứ?
Bảo Trân ủ rũ nhìn chiếc
thuyền nan đưa Phong xuôi theo giòng nước cho đến khi chiếc thuyền chỉ còn là
một chấm nhỏ tý ty trong vùng nước mênh mông.
Vẫn trong trạng thái bất an,
Bảo Trân thầm mong chấm nhỏ tý ty ấy xuất hiện để rồi lớn dần, lớn dần trong
tầm mắt nàng. Nhưng hai buổi chiều rồi, chiếc thuyền nan vẫn chưa trở lại. Hôm
nay cơ quan du lịch mới tìm được phương vị của chiếc Royal và đoàn du khách.
Ðây là chuyến trực thăng cuối cùng di chuyển du khách khỏi vùng này nên director Charles cố thuyết phục Bảo Trân
một lần nữa:
- Chúng tôi hứa sáng mai
công việc tìm kiếm bác sĩ sẽ được tiếp tục. Vậy xin bà yên tâm, theo chúng tôi
đi về.
- Cảm ơn ông, nhưng tôi xin
được ở lại đây đợi Phong trở lại hay là cho đến lúc các ông tìm được Phong.
Hạm trưởng có vẻ bức rức:
- Tôi rất tiếc là sự việc đã
xảy ra ngoài ý muốn như thế này. Nhưng bà ở lại đây cũng không thể thay đổi
được sự việc, vậy tại sao bà phải tự hành hạ bà? Thôi, bà đi về với chúng tôi.
Sáng mai trực thăng lại sẽ tiếp tục tìm kiếm bác sĩ, như hai ngày qua chúng tôi
đã thực hiện.
- Tôi muốn được yên tịnh một
mình. Các ông về đi.
Chiếc trực thăng nâng thân
hình lên rồi lượn vòng gộp đá như có ý chào giã biệt Bảo Trân. Chiếc trực thăng
vút lên cao trong khi Bảo Trân từ từ gục xuống vì gió, và vì đau khổ!
Còn lại một mình, Bảo Trân
đâm ra hối tiếc vì chút đạo lý mà nàng đã không dám sống theo đà lòng của mình;
nàng đã đạo đức giả, đã cao thượng không đúng lúc, đã hy sinh không phải cách cho
nên không dám đáp ứng mối tình nồng thắm của Phong...
Trong khi Bảo Trân bị niềm
ân hận và nỗi đau xót dày vò để tự trách mình thì, tự dưng, theo từng cơn gió
buốt lạnh, tiếng hát nức nở của Richard Marx vang lên: “Oceans apart day after day, and I slowly go insane. I hear your voice on the line. But it
doesn’t stop the pain. If I see you next to never, how can we say forever.
Wherever you go, whatever you do, l’ll be right here waiting for you. What ever
it takes, or how my heart breaks, I’ll be right here waiting for you ...” Bảo
Trân nhìn quanh như tìm kiếm, vì nàng nghĩ đó là tiếng hát của Phong. Không
thấy ai cả, Bảo Trân khóc òa. Ðây là một đoạn của tình khúc Right Here Waiting
mà Bảo Trân rất thích và Phong thường hát cho nàng nghe như ngầm nói lên lòng
kiên nhẫn và nỗi thiết tha của chàng dành cho nàng. Bảo Trân vừa sụt sùi vừa đắm
hồn theo lời ca. Bất chợt Bảo Trân cảm biết như có người đang nhìn lén nàng từ
phiến đá bên trái. Bảo Trân xoay nhìn về hướng ấy và nhận ra đó là thanh niên
ngoại quốc ngồi cạnh nàng trên chuyến bay của Hàng Không Việt Nam từ Dalat về
Nha Trang!
Bảo-Trân bẻn lẻn mỉm cười,
đưa ngón tay quẹt những giọt nước mắt còn ấm. Thanh niên cũng mỉm cười thân
thiện rồi trao nàng vài tờ kleenex. Bảo
Trân nhỏ nhẹ cảm ơn.
Bảo-Trân dùng kleenex chậm nước mắt rồi lại nghiêng
một bên má sát vào khung kính cửa sổ phi cơ. Xuyên qua từng áng mây bàn bạc,
Bảo Trân thấy những lượn sóng trắng xóa di động chầm chậm trên vùng biển lặng.
Nhìn vườn dừa xa xa nơi eo biển vắng, Bảo Trân tưởng như nàng có thể thấy được
gương mặt đăm chiêu cùng ánh mắt buồn rười rượi của Phong – lúc Phong bịn rịn
chia tay với nàng tại phi trường Liên Khương – đang chờn vờn trong những đóm
nắng xôn xao trên vườn dừa xanh ngát. Bảo Trân thở dài, chợt nghĩ đến hai câu
thơ mà, trong giấc mơ của nàng, Phong đã đọc trên du thuyền Royal; có điều Bảo Trân
đổi chủ từ cho hợp với tâm trạng của nàng:
Em nhìn xa vắng, ngàn thương nhớ.
Anh đã xa rồi, anh biết không? (4)
Điệp Mỹ Linh
http://www.diepmylinh.com/
(1) (3) (4) Trích từ tập thơ Nửa
Đời Thương Đau của Hoang Vũ Bảo.
(2) Trích từ nhạc phẩm Trăng
Lạnh của cụ Ðiệp Linh Nguyễn Văn Ngữ.