Lời dẫn: Tập
tuyện "Ngày tháng buồn hiu" của Ngọc Ánh hiện đang được chúng tôi giới
thiệu với quý vị qua đề mục 'Truyện nhiều kỳ' trên trang blog Góc
Sân Chơi. Chúng ta sẽ cùng tác giả đi trở lại những khoảng thời gian
khó khăn đầy tuyệt vọng trong quá khứ để giúp chúng ta bước hy vọng mãnh
liệt về tương lai tươi sáng trước mặt. Kinh nghiệm của tác giả chính là
chất liệu chúng tôi muốn gửi đến quý vị để chúng ta cùng bước qua 'ngày tháng buồn hiu' và nhìn lại nó với lòng can đảm và tự hào. Mời quý vị.
CHẶNG
ĐƯỜNG ĐÃ QUA
Mất ngủ, một triệu chứng suy nhược
của cơ thể, một hiện tượng mệt mỏi của tuổi già -Ừ, chắc có lẽ vậy! khoảng thời gian gần
đây người cứ trăn trở thế nào ấy, thức khuya dậy sớm, công việc vất vả trong cải
tạo là chuyện đã đành, nhưng vấn đề vẫn là nỗi bâng khuâng ray rứt trong cuộc sống nội tâm qua
từng ngày, từng tháng
Mười năm trong tù!
Tôi rùng mình khi nhìn lại
quá khứ, chặng đường đầy nước mắt, mồ hôi, đầy gian nan, khốn khó
mà tôi đã từng bước vượt qua, kiên trì chịu đựng (cũng có lúc mỏi
đuối và muốn buông xuôi).
Cuộc sống loi nhoi trong một
tập thể đầy phức tạp, đủ dạng người, đủ thứ tội lỗi trên đời, cái tồn tại cặn bả của
xã hội đã được người ta ném vào một xó, chất đống như kho phế
liệu, cũng có những cây đinh đã rỉ sét và cũng có những trang giấy
chỉ mới ngã màu.
Tôi sống ở đây hơn 7 năm và
những trại giam khác gần 3 năm, đã va chạm hàng loạt người đủ loại
thành phần, có người trở về và vào lại trại đôi ba lần, có kẻ đã chết tiệt ở đâu đó
trong luật ân oán giang hồ, bệnh tật, tai nạn ở xó xỉnh nào không
biết, và cũng có lắm người cố tìm cách
ra đi bất chấp mọi hiểm nguy trước bao la sóng dữ, hoặc là chết giữa
biển khơi hay là có cơ may sang tận bên ấy để thoát khỏi gông cùm của
nhà tù Cộng sản, cái nhà tù lớn nhất của cả nước đang giam hãm
người dân trong cuộc sống nhọc nhằn đói kém và đầy dẫy bất công áp
bức.
Đằng nào tôi cũng là kẻ ở
lại, thầm lặng như một chiếc bóng trong bức tường loang lỗ của trại
giam, như con chim cô đơn đậu hoài trên cành cây khô sau hàng rào kẽm gai chằng chịt, để mỗi
sáng mỗi chiều kêu lên những tiếng buồn áo não, gợi nhớ trong lòng kẻ xa
nhà nỗi man mác, đìu hiu …
Mười năm trong tù!
Có hàng trăm chuyện đã xảy
ra, buồn thảm đau thương nhiều hơn nụ cười tươi tỉnh. Tôi đã khóc suốt trong
những năm tháng buồn tênh ở đây, nước mắt cứ chực chờ chảy quanh và
khóc như một thói quen khó cưởng, có lúc tôi cũng phải
ngạc nhiên vì cá tính yếu mềm của mình, nhất là từ dạo anh ấy
mất, bao nhiêu câu chuyện đáng buồn dồn dập xảy ra, VyDân èo uột bệnh hoạn, đói khổ, túng thiếu, cuộc
sống vây quanh với bao điều bực mình, thất vọng .. Và có những giây phút chán
chường cùng cực nhất, tôi đã có ý định tự tử cả hai mẹ con, cái
đập chân kêu thét đầy vẻ hoảng sợ của thằng bé đã làm tôi bật
khóc, tội nghiệp! Nó vẫn là thằng bé đáng thương vô tội kia mà, và
tôi lại ôm nó vào lòng dỗ dành, xuýt xoa, cái bàn chân khẳng khiu đã
“cầm” khăn lau nước mắt trên gương
mặt bơ phờ của mẹ nó …
Mọi việc xảy ra như một dấu
ấn đậm nét mà tôi không thể nào quên được, tất cả vẫn quay đều trong
trí nhớ tưởng đã cùn mằn theo thời gian xa lắm, nhưng càng hồi
tưởng, càng thấy rỏ nét xót xa. Lâu rồi tôi vẫn nhớ câu nói dấm dẳng của mụ cán bộ y
tế khi gọi cấp cứu cho VyDân:
"Mẹ con bà đó ở lâu quá rồi, tốn biết bao nhiêu là thuốc của nhà nước, cứ bệnh hoài,
khỏi phát luôn.” Cái vẻ ái ngại, chắc lưỡi của gã cán bộ khi nhìn thằng bé đang thoi
thóp “Nó què quặt tật nguyền như
vậy, sống chẳng có ích lợi gì chẳng lẽ chị phải nuôi hoài vậy sao?" những câu nói thật tàn nhẫn mà tôi đã gầm gừ lên như con thú
bị thương lồng lộng điên tiết, ôi thằng khốn, nếu mày cũng
có đứa con như vậy thì chắc mày giết nó ư?
Mười năm trong tù!
Tôi vẫn còn nghe được mùi
thơm của quả cam bị bể khi được ném vội vàng qua ô cửa sổ biệt giam, tán đường nhỏ xíu được nhét
vào khe cửa, cái áo trẻ con dính đầy mực cũ mèm của một người tốt
bụng nào đó đã gởi cho Vy Dân, những dòng chữ viết bằng máu (mà tôi
đã đâm kim vào ngón tay mình) để thông cung cho anh ấy, những nét khắc
chằng chịch trên cái ca nhựa của anh đưa sang…
Cái giai đoạn khốn khó
cùng cực mà tôi đã thắm thía trải qua, từ mái tóc đen mướt
ngang vai “búi chưa đầy búi” của
ngày mới nhập trại, 24 tuổi chưa tròn với gương mặt bình thản và nụ
cười diễu cợt, vô tư trước bảng cáo trạng dài ngoằng trong ánh mắt của một
số người thay mặt pháp luật để phán xét hành vi sai phạm “…Trẻ người non dạ, theo đóm ăn tàn, bị
lợi dụng, lôi cuốn vào một trò chơi nguy hiểm, đầy ngu xuẩn dại dột
..v.v… Nghị án từ 18 đến 20 năm, nhưng xét khoan hồng theo chính sách,
phạt tù 14 năm để có cơ hội ăn năn giác ngộ …”
Không có một giọt nước mắt
nào rơi ra trước vành móng ngựa, tôi lạ lùng như thể người ta đang
gọi một cái tên nào đó xa lắc xa lơ, không dính líu đến mình. Lần
gặp mặt cuối cùng ở toà án, và nụ hôn anh ấy nhẹ như sương khói
mong manh..
“…Các bị cáo phải nộp 20 đồng tiền án
phí, riêng bị cáo tử hình thì được miễn …”
Tôi không hiểu mình nên cười
hay nên khóc trong lời tuyên bố như đang đùa ấy, nhưng có điều đau nhói
nhất là sự vĩnh biệt, hai đứa đã xa nhau từ đó …..
Lên xe chuyển trại, đoạn
đường nghiêng ngã với đám bụi đỏ cuốn mù đằng sau, hành trang nặng
nề là đứa trẻ èo uột trên tay, kỷ vật duy nhất còn sót lại trong tình
yêu tuyệt vời của hai đứa, tôi chỉ biết
thở dài đau
đớn, xót xa ...
Dãy núi sừng sững chắn
ngang tầm mắt, rừng rậm còn đầy vẻ hoang vu, bò cạp, rắn rết, đỉa vắt .. tôi ngại ngùng với
từng con vật hèn mọn trong mỗi bước chân đi ... Cuộc sống ở trại cải
tạo còn đầy bở ngỡ, một tập thể đông đảo phức tạp, đấm đá la hét, chửi rủa
thô lỗ tục tằn. Sự tù túng bó buộc khiến người ta dể nỗi
điên bởi những điều vặt vảnh trong cuộc sống va chạm hàng ngày, tôi
cố thu mình như con ốc nhỏ để được yên thân, trong trại nữ này, tù
chính trị không có ai ngoài mẹ con tôi, còn lại là tội tham ô, móc
ngoặc, ăn cắp buôn lậu, trộm cướp giết người .. và dĩ nhiên tôi cũng đã va chạm với
lắm điều nhỏ nhen, ganh tỵ, cái thành kiến “ma mới ma cũ” hẹp hòi so đo, nỗi mặc
cãm tội lỗi, nghi kỵ, rình mò chụp mũ, để chực chờ báo cáo lập
công. Tôi vẫn nhớ vẻ hậm hực của ả toán trưởng có bộ mặt hung hăng như quỷ sứ “…làm trực sinh phải biết gánh nước,
đừng quen thói tiểu tư sản, bóc lột công sức người khác gánh dùm ..”
Cái nguýt dài chua ngoa của
con thư ký “vô cải tạo mà cứ ru rú ôm
con, ngồi mát ăn bát vàng, còn lâu mới được giảm án..” Tủi nhục cay đắng, tôi chỉ biết khóc
thầm, thấy thương thân phận hai mẹ con côi cút.
Trong đám đông hỗn loạn, thỉnh thoảng tôi
vẫn bắt gặp những ánh mắt thông cảm, những nụ cười làm quen,
những câu nói an ủi, những giúp đở nhiệt tình.
Chịu
đựng cái khí hậu khắc nghiệt
của vùng rừng núi heo hút ngày nắng cháy da, đêm sương lạnh buốt, tôi cứ ám ảnh những cơn sốt rét chết người,
xa chợ, xa bệnh viện, lỡ thằng bé có bề gì ..
Cũng may, hai mẹ con đều
khoẻ, VyDân ít bệnh vặt hơn trước, thằng bé càng tươi tỉnh bao nhiêu
thì tôi càng héo mòn bấy nhiêu, tôi phải bỏ hàng buổi trưa để tập
đặt gánh nước trên vai, đi vòng quanh nhà cho chai dần đôi vai yếu ớt, cái công việc nhẹ nhàng nhứt
của trại cải tạo là làm trực sinh, dọn dẹp nhà cửa, quán xuyến
việc nhà …Đối với tôi lúc ấy sao mà gian nan thế không biết, dâu trăm họ
thì lắm chuyện lôi thôi, bù vào đó tôi được ở cạnh chăm sóc thằng
bé, loay hoay mất cả ngày, ăn muộn, ngủ muộn, tắm giặt muộn.
Thỉnh
thoảng Ba Má Sáu cũng lần mò đường xa lên thăm, tuổi già lụm cụm,
ông bà phải chạy ăn từng bữa vất vả nhưng cũng ráng dành dụm tiền
để mua cho con chút quà vặt, lọ mắm ruốc, bịch muối ớt, cái mền cũ
cho thằng nhỏ…. Lần
nào ba má về nước mắt cũng rưng rưng “Không biết lần sau có còn khỏe
để lên thăm, biết ba má có còn sống để đợi con mãn án trở về...” Và lần
nào tôi cũng khóc vì thương Ba Má, nuôi con lớn khôn, con chưa một ngày
đền đáp công ơn dưỡng dục trời biển mà bây giờ lại làm ba má bận tâm
lo lắng, tôi thấy lòng ray rức không yên, thấy mình thêm nặng nề tội
lỗi.
Buồn phiền trĩu nặng làm
tôi trở nên cằn cỗi, khô khan. Tôi chẳng còn thời gian nào rảnh rỗi để
nghĩ đến điều gì khác hơn nữa, ngoài công việc bận rộn hàng ngày.
"Phấn đấu”, cái từ như thôi thúc
trong đầu, tôi chẳng biết phải làm thế nào để vừa lòng mọi người. Chăm
sóc Vy Dân là cả một điều vất vả, bỏ thằng bé ở nhà, đi làm theo
tập thể, sáng không kịp cho con ăn, trưa về muộn, thằng bé đói rã ruột, đành cố gắng vậy, để mẹ phấn đấu mau về, mọi khó khăn hai mẹ con đều phải khắc phục, dỗ dành mãi thằng bé mới
chịu ở nhà. Vy Dân rất thông minh và hóm hỉnh, nó nghe
và hiểu tất cả, có điều nó không nói được, nó trở
thành kẻ tật nguyền từ sau cơn bệnh viêm não lạ lùng ở trại tạm
giam, chân tay lỏng khỏng, không ngồi được, không nhai được, không cầm
nắm được, chỉ có nằm ngữa suốt ngày với hai chân ngo ngoe mạnh mẻ
để ra dấu thay cho ngôn ngữ bằng cái đập chân, chân đưa lên cao là “có” chân
hạ xuống thấp là
“không”, mọi người cứ đặt câu hỏi và nó sẽ trả lời thành thạo, nhưng tôi biết trái
tim nó tràn đầy cảm xúc mà chỉ có Mẹ mới cảm nhận ra.
Trong
trại tù không ai được mang con vào ngoài thằng nhóc bụng ỏng đít teo chừng
4-5
tuổi con
của mụ y tá ngày nào cũng lang thang theo má nó lùng sụt phá phách,
có lần nó đã véo VyDân đau điếng vì nghịch, nhưng bị thằng bé đá vào
mặt một cái nên thân, khiến nó khóc ỏm tỏi, lần đó hai bà mẹ bênh
con cải một trận um sùm. Không
ai sợ mụ y tá dốt nát này vì mụ chỉ phát “xuyên tâm liên” cho đủ thứ bịnh, nhưng
nhờ vậy mà từ đó về sau thằng nhóc không còn léng phéng xuống khu nhà
nữ nữa.
Tôi
nhớ có lần VyDân gặp đứa con gái đầu tiên trong cuộc đời khi nó lên 6 tuổi, con bé được ưu tiên
vào tận khu nhà nữ thăm mẹ vì mẹ nó là cán bộ nhà nước mang tội
tham ô gần mãn hạn tù.. Con mắt thằng bé tròn xoe kinh
ngạc nhìn mãi nhìn mãi, chưa bao giờ nó thấy một bóng hồng nào xinh
xắn đến như vậy, nhưng khi con bé đưa cho nó cục kẹo, Vy Dân đã không
thể cầm được, cánh tay nó co rút bất lực khiến con bé kêu lên “Mẹ ơi tay anh ấy bị sao vậy?”Tội
nghiệp con trai tôi, nó rươm rướm nước mắt quay đi, lần đầu tiên nó
biết mặc cảm vì sự khác thường của kẻ khuyết tật.
Có
lần ngày Tết trại mổ trâu cho tù nhân được “bồi
dưởng” chút thịt tươi, con trâu được trói vào
cột chuẩn bị để giết thịt, nó đã vùng lên bứt dây chạy hoảng loạn trong
trại, mọi người vây bắt con vật khốn khổ, nó lũi vào khu vực nhà
nữ, chúng tôi đóng cửa lại cho an toàn, hai mẹ con ngồi trong cửa sổ
nhìn ra, con vật đi loanh quoanh trong mấy luống rau sau hè, nhưng lạ
một điều là nó không hề làm dập một cọng cỏ... Tên
trưởng trại mang súng tới để bắn, tôi vội che mặt Vy Dân lại để nó
không thấy những điều kinh khiếp... Tiếng nổ khô khốc khiến tôi
thảng thốt nhớ tới anh ấy. Bọn chúng bắn vào người anh cũng giống như bắn con
vật này, mọi sự tàn sát đều dã man, ghê rợn.
Tim
tôi như nhói đau khi chứng kiến con vật đổ gục xuống.
Tết
năm đó hai mẹ con từ chối phần thịt “bồi
dưỡng”. Thằng
bé nhất định không ăn dù ai cũng nài ép. Thương biết bao con trai
tôi có một trái tim nhạy cảm và dễ xúc động!
Mười
năm trong tù!
Lần đầu, cầm cây cuốc trên tay sao
thấy nặng lạ lùng, lần đầu con đường đi xuống bãi làm chợt xa tắp,
lần đầu bước chân vào đám cỏ rậm thấy rờn rợn ghê ghê, lần đầu cắm
giây khoai chôn ngọn xuống đất, lần đầu nhổ cỏ lúa lẫn lộn lu bù,
lần đầu cấy lối mạ nghiêng ngã rối tung, bổ nhát cuốc không đứt nỗi
gốc tranh bụi cỏ.
Ôi! Lần đầu với hàng đống công việc nhà nông
mà người phụ
nữ gốc thành phố như tôi chưa bao giờ trãi
qua kinh nghiệm, nếu không lọt vô hoàn cảnh tù tội này để bắt buộc
phải “hoàn thành chỉ tiêu năng xuất”. Cái vóc dáng nhỏ nhoi khoảng
chừng 36kg yếu
ớt gầy nhom như tôi đã không gánh đủ 25 đôi nước từ bờ sông về
trại, trên đoạn đường dài hàng cây số trong trưa nắng chang chang trên cát
nóng bỏng chân, đã không đội nỗi ba thùng lúa đầy leo lên bậc tam cấp
để nhập kho, lúc nào cũng văng vẵng bên tai cái từ “phấn đấu cải tạo”, về tới nhà ê ẩm mỏi
đuối, bồng thằng bé nặng chình chịch như bao lúa trăm cân
để hai mẹ con ngã sóng soài trên tấm ván giường thở dốc.
Ôi! Sao mà vất vả quá,
liệu mình có đủ sức chịu đựng khi án tù còn thăm thẳm phía trước.
Mười năm trong tù!.
Tôi nhìn từng khuôn mặt thân
quen, đã sống ở đây và đã ra về - họ là những tên cướp lừng danh đã
từng giết người cướp của, những tên trộm chuyên nghiệp moi móc đồ
người, những kẻ lừa đảo với đầy đủ mánh khoé gian manh. Họ là
những thành phần đâm cha chém chú, quậy phá giang hồ, họ là những cô
gái đi hoang từ năm mười mấy tuổi, sống lang thang ở công viên góc
chợ, tụ tập những băng nhóm du đãng, bụi đời. Họ cũng có những người đàng hoàng - có
vị trí đứng đắn ăn trên ngồi trước trong xã hội, vì tham ô thoái hoá,
phản đảng lừa dân để sa cơ lỡ bước vào đây, ân hận nuối tiếc cho một
thuở huy hoàng, họ là những người không chấp nhận gông cùm đàn áp trong chế độ Cộng sản,
không chịu được
cuộc sống đói nghèo ở quê hương mình, nên kéo nhau bỏ nước ra đi,
nhưng vượt biển bất thành vì không thuận buồm xuôi gió, và họ cũng
có cả những người như tôi, mưu toan bẻ gậy chống trời, châu chấu đá
voi.. .
Dưới
áng nắng chói chang của sân trại trong giờ tập họp điểm danh, mọi
tội lỗi đều được phơi bày, có thể bọn họ xem chúng tôi là tù nhân
bị “mất quyền công dân” và mất
luôn quyền con người với lòng tự trọng tối thiểu. Họ đọc ra rả tên
và tội danh từng người như một điều sỉ nhục, Nguyễn văn A cướp 7 năm, Lê thị B ăn cắp 3 năm, Trần văn C giết người 15 năm.. Bị “điểm danh”
riết rồi quen nên đám tù nhân đều trơ mặt xem là chuyện bình thường,
dĩ nhiên tội danh của tôi không có gì phải xấu hổ trước đám đông,
nhưng người nào mà bị tội hiếp dâm thì họ ngượng ngùng cúi mặt khi
nghe gọi tên, mặc cảm tội lỗi này khó mà xóa được nếu ai đó còn
chút lòng tự trọng.
Cuộc sống phức tạp bước
đầu có làm tôi khó chịu, nhưng lâu dần rồi cũng quen đi, tôi thấy hòa
đồng và dễ dàng thông cảm hơn, dù sao thì cũng là tình
đồng phạm, có những cái bộc trực
đáng tha thứ, sự đánh đồng chung chạ giống như một cái thùng
đựng đủ thứ hầm bà lằng phế thải, bị xóc lên xa cạ để rồi an ủi
nhau “chúng ta sống chung một môi trường tù tội, đều là những kẻ xấu xa tệ hại rác
rưởi của xã hội, cứ chấp nhận vậy đi!”
Những manh áo rách, những
chén cơm lưng, những cơn mưa nắng nhọc nhằn, họ gào thét cấu xé nhau,
nhưng sau đó họ lại ôm nhau cười đùa ầm ỉ, chia sẻ cho nhau bằng tất cả chân
tình đùm bọc. Tôi thương họ nhiều hơn là phiền trách, những câu
chuyện tâm tình vụn vặt. Họ kể về thân phận của mình, về quá khứ tội lỗi, về tất cả
những chua xót bầm dập trong cuộc sống đã qua, tôi cố nghe và hình
dung như một bức tranh sinh động của một tác giả đang say mèm, nét
chấm phá tranh tối tranh sáng, nửa xám nửa nâu, cái màu nhợt nhạt
buồn hiu, họ đổ thừa cho hoàn cảnh cho xã hội, hay chính sự yếu hèn
ích kỷ của họ, đã tạo nên những hậu quả bi thương.
Có lúc tôi cũng chịu khó tò
mò tìm hiểu
nguyên nhân đã dẫn họ vào tù ra khám, mà không cảm thấy hối hận ray
rứt cho việc làm quá đáng của mình, tiền án tiền sự dẫy đầy,
thành kiến địa phương, cuộc sống túng cùng trong xã hội còn lắm rối
ren phức tạp, gia đình không hẳn là nền tảng vững chắc để họ có
thể ẩn nấp dung thân, những người thương yêu thì buông xuôi bất lực,
họ như rong rêu trôi dạt giữa dòng đời hất hủi, đánh mất niềm tin, không tự chủ
để dừng lại giới hạn giữa cái đúng sai phải quấy và cứ thế lao đầu vào sa ngã, tội
lỗi chất chồng - trại giam như một chỗ dừng chân. Họ ngoan ngoãn khép
mình cho qua ngày đoạn tháng, cải tạo chỉ là danh từ chứ không phải
là động từ. Cuộc sống đáng sợ nhất là không có niềm
tin, không có hy vọng. Họ chẳng biết bấu víu vào cái gì nữa, hoài
bão, lý tưởng thì mơ hồ quá. Cuối cùng họ chẳng muốn cứu lấy
mình nữa, họ đã-chết- không- nhắm-
mắt, hủy
hoại cuộc
đời trong
bốn bức tường trại giam…. Và từ những suy nghĩ đó tôi đã có mơ ước thật tốt đẹp,
khi nào được trở về, được có cơ hội làm ra nhiều tiền, lập cơ sở đồn điền nhà máy
sản xuất chẳng hạn, kéo họ về làm công nhân, giúp họ có nghề
nghiệp xứng đáng, ổn định đời sống để họ nguôi ngoai, để họ tìm
lại niềm tin đã bị mất mát vùi dập.
Cái ước mơ dễ
thương như ngày xưa còn là cô học trò nhỏ ngây thơ giữa mộng và thực,
để mong xã hội tốt đẹp hơn, có những con người biết sống tử tế hơn, chẳng biết về sau, có bao giờ tôi sẽ
buồn cười về tính bốc đồng này không? Bởi vì
cuộc đời vốn
không như là mơ kia mà, còn Cộng sản là còn những
thực tế phủ phàng, còn những gian trá lọc lừa do quái thai Xã hội
chủ nghĩa tạo ra và cửa nhà tù lại mở
để nhốt sự bất lực của chính họ.
Mười năm trong tù!
“… nhìn lại mình đời đã xanh rêu ..” tôi chợt xót xa khi nhận
ra điều đó, cả một thời tuổi trẻ phí phạm, lãng quên .. Tôi chẳng tiếc rẻ gì, nếu
sự đánh đổi đó là một điều hợp lý, có thiệt thòi chăng là sự nằm
xuống của anh ấy, nỗi mất mát đau thương mà riêng tôi phải chịu đựng,
can đảm và chấp nhận!…
"Em chợt lẻ loi trong sự bất hạnh, mọi người vẫn cho là em dũng cảm, và ngay
cả em cũng ngạo mạn trong sự cứng rắn của chính mình, nhưng thật ra
trong tận cùng của tâm hồn, em vẫn có những nỗi yếu đuối thật đàn
bà, em vẫn có một trái tim lãng mạn và cuộc sống nội tâm sùng
sục những bão ngầm.”
Tôi đã thú thật với anh ấy
bằng những trang nhật ký đầy nước mắt. Mấy năm rồi, không phả̀i
không có những xao động trong cuộc sống đầy phức tạp ở đây, thân phận
của một người đàn bà còn trẻ (quá ́trẻ trong cái nghĩa thiệt
thòi của nó) chồng chết, con tật nguyền, hàng trăm nỗi khổ đau dồn
dập, tôi đã cố gắng để khắc phục những khó khăn, cố gắng để nguôi
ngoai quên lãng. Quá khứ thật đáng buồn! Tôi giả vờ bình thản, dững
dưng trước mọi lời tán tỉnh, thỉnh thoảng nhận được những lá thư
làm quen, an ủi, khuyên nhủ, tỏ tình ..đủ thứ đủ dạng, đọc rồi
buồn buồn, cười cười lại đốt đi …
Có
lúc nghe những
lời thiết tha mật ngọt của các anh chàng cô đơn, họ động viên thông
cãm, họ hứa hẹn vỗ về, họ chân tình thật sự hay chỉ thương hại vu
vơ, đằng nào thì tôi cũng lo sợ, hoài nghi, qua một lần đổ vở tôi
thật sự mệt mỏi, như con chim bị tên, thấy cành cong cũng lo âu, hốt hoảng. Quá khứ là kinh nghiệm, tôi
thờ ơ khi nghĩ đến chuyện tình cảm yêu thương, mọi rung động
xúc cãm trong tôi có lúc tưởng như bị xơ cứng, lạnh lùng, dù
lòng lúc nào
cũng mơ ước mộng bình thường như bao người phụ nữ khác
được yên ấm trong vòng
tay yêu thương của một gia đình hạnh phúc.
Ngày về – tìm một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, bên mảnh vườn con, có dòng
sông, có con đò, có hoa có nhạc, có sách có thơ … có dăm ba bạn bè
rù rì tâm sự, chủ yếu là thoải mái tâm hồn, nhưng liệu có thật sự
tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống bình dị đơn sơ đó không, hay dòng
đời cứ mãi nỗi trôi, vùi dập?
“Hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp, mùa xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng hồng, cuộc đời còn
có những nụ hôn”
bản nhạc
tình duy nhất thời nay mà tôi nghe được trong tù qua cái radio cũ
kỷ của tên cán bộ đem ra đồng ngồi canh chúng tôi lao động, bản nhạc
nghe qua đã thấy
nao lòng, Ừ! cuộc đời còn có những cái gì hơn thế nữa kia mà, trái tim tôi đâu hẳn
là đã hóa thạch, không còn biết khao khát khi nhắc đến chuyện tình
yêu ?
Trong giọt nước mắt vẫn có
thấp thoáng nụ cười, và trong nỗi đau thương vẫn có những phút giây
xôn xao tươi tỉnh, tôi đã có lúc phải cúi mặt đỏ bừng, bối rối
trước ánh mắt tha thiết của gã đàn ông xa lạ, tôi đã có lúc phải
dấu đi nỗi rung động êm ái khi vô tình nghe được câu nói ngọt ngào từ
bờ môi của kẻ đang yêu ..Tôi đã có lúc phải ngẩn ngơ như thời mới
lớn trước những bông cúc vàng cắm lặng lẽ trên cửa sổ đêm Noel của ai đó, quà tặng dịu dàng thay cho lời tỏ tình tế nhị
hay sao? Tôi đã có lúc thấy lòng mềm ấm trước những xoa dịu chân
thành của bạn bè cùng cảnh ngộ:
"Hãy cố gắng và đừng bao giờ bị đồng hóa.
“Ở người đàn bà có 3 niềm hạnh phúc, được bên chồng, bên con và cuộc sống gia
đình êm ấm, còn chị -cùng một lúc đã mất tất cả 3 điều đó …Chị là tấm
gương can đảm mà anh em phải khâm phục quý mến, mức án dài và tấm lòng bền bĩ, cứ so sánh đến sự
chịu đựng và hoàn cảnh của chị là chúng tôi thấy mình cần phải cố
gắng thêm lên …
“Hãy lấy sự khôn ngoan ra xử thế, chứ đừng để tính đàn bà chế
ngự.”
Và trong mỗi lúc yếu lòng,
chùn bước, tôi lại nghĩ đến những lời khuyên như vành đai cố thủ,
cái thành trì vững chắc của tâm hồn, để ngăn tôi không chao đão lung
lay, tôi nghĩ người ta chỉ thương hại mình thì đúng hơn (mà tôi thì
không cần thiết những điều đó) đàn ông họ vẫn thích làm Từ Hải, trước
nàng Kiều gian nan, thế thôi!
Kiều có 15 năm lưu lạc, còn tôi- mức án cũng gần bằng như
thế, liệu có Từ Hải nào thật lòng mang lại yêu thương cho tôi, sẵn sàng bao dung che chở mọi sóng
gió muộn phiền trong cuộc đời góa phụ bơ vơ! Suốt
những năm tháng trong tù cô đơn hiu quạnh, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về tương lai với bao điều ao ước vu
vơ như thời còn trẻ, có một gia đình nhỏ ấm cúng hạnh phúc
Thật tình cho mãi đến bây
giờ -tôi vẫn còn yêu anh ấy thiết tha - tôi không muốn anh ấy phải
thất vọng vì sự lầm lẫn của tôi, trong việc bước thêm bước nữa, VyDân
là thằng bé
tật nguyền, bất hạnh nên lòng ích kỷ của nó
cũng vô cùng.
Nó mất cha khi mới 5 tuổi và nó cần mẹ hơn bất cứ một điều gì, sự cao quí thiêng liêng nhất trên đời, nó không cho mẹ
lấy chồng, mặc dù nó rất thích có em bé để cùng chơi với nó.
Ôi! Con dế mèn bé bỏng tội
nghiệp! Tôi đã hứa cho nó yên lòng vì tôi không muốn nó phải buồn
tủi trong sự mất mát thiệt thòi bởi mồ côi cha quá sớm nhưng dù thế
nào thì tôi vẫn biết, muôn đời anh ấy mãi là người chồng rộng lượng
và mong muốn cho tôi được hạnh phúc trong bình yên, cũng như VyDân, nó cũng cần
có một người cha để thương yêu, dìu dắt … Chính vì thế mà tôi cảm
thấy khó khăn trong việc quyết định hạnh phúc tương lai, tôi sợ mình
sẽ khổ sở, sẽ thiệt thòi như kẻ mắc lời nguyền độc ác của nốt
ruồi trong khóe mắt “thương phu trích
lệ” mà tôi cứ ám ảnh, lo âu…
Nhớ
có lần buổi
chiều tôi phải gánh nước đi ngang các dãy
trại giam đông nghẹt người, những đôi mắt đàn ông hau háu nhìn chằm chằm từ đầu đến
chân đã làm bước đi tôi luống cuống, ngại ngùng … Chợt lúc đó
chiếc đòn gánh
gảy đôi, cặp thùng đổ nước tung toé, vừa xấu hổ, vừa hốt hoảng tôi
bối rối cuống cuồng, chợt có tiếng ai đó kêu lên: “Coi kìa! Tội nghiệp chưa? Chị ấy đã nửa chừng gảy gánh ..” tự dưng tôi thấy tủi thân lạ lùng, rơm rớm nước mắt quay
đi. Ừ! Tội nghiệp cho tôi thật!! Câu nói đã bao gồm đầy đủ ý nghĩa
của nó.
Rồi
VyDân cũng bỏ tôi ra về, một tổ chức nhân đạo bên kia bờ đại dương xa
xôi nghe gia đình anh ấy đưa tin có thằng bé tật nguyền trong
trại giam,
họ đã can thiệp với Cộng sản mang nó ra khỏi nhà tù và đưa đi xa
hơn nữa để đến một nơi an toàn cho tuổi thơ của nó.
Thời
gian sau này khi Ba tôi đã mất thì gia đình chắc cũng nghĩ lại nên
chị Hai
tôi lên trại thăm được vài lần, mang theo những bức thư của các em với
lời lẽ động viên an ủi “cố gắng
cải tạo tốt để mau về” khiến tôi phì cười mỗi khi
đọc, cố gắng thế nào bây giờ, tội hình sự giết người cướp của,
tham ô hối lộ thì mỗi năm được giảm 2 năm, án tù càng cao thì càng
giảm nhiều để rút ngắn thời gian ân xá, còn tôi thì 8 năm mới
được giảm 6
tháng!
Nghĩ cũng chẳng có gì lạ khi bọn họ căm thù những kẻ phản động như
tôi.
Chuyện
VyDân được
ra khỏi trại là
tôi yên tâm rồi, đối với tôi đó là một ước mơ mà tôi chưa bao giờ
nghĩ đến, một thằng bé bệnh tật èo uột như nó mà phải chịu cảnh
tù tội suốt 8 năm. Quả thật kinh
khủng, đây là cơ hội tốt nhất để VyDân thoát khỏi nơi đày ải khắc
nghiệt này, tôi nghĩ anh ấy đã phù hộ cho thằng bé, dù muộn vẫn
còn hơn. Nhưng khi chị tôi mang hồ sơ xuất cảnh vào trại để làm thủ
tục cho nó thì nó phản ứng dữ dội, những cái đập chân mạnh mẽ
cương quyết, thằng bé chỉ muốn ở lại với Mẹ thôi, tôi cố thuyết
phục dỗ dành “Chỉ vài năm thôi mà. Rồi Mẹ sẽ trở về với con, ở
nhà Ngoại con sẽ được ăn uống đầy đủ, sẽ có nhiều đồ chơi, sẽ mau
hết bệnh...” Cái môi
nó mím lại như mếu, hai bàn chân kẹp chặt hông tôi không buông khiến
tôi thêm thắt thẻo ruột gan. Nửa đêm hôm ấy chờ nó ngủ say chị tôi đã
bồng nó ra về, đường mưa trơn trợt ướt dầm mà tôi nghe tim mình đau
nhói, nước mắt như mưa.
Ôi
con dế mèn bé bỏng, rồi con sẽ đi xa hơn nửa vòng trái đất để đến
một đất nước tốt đẹp hơn, nơi đó không có hận thù như dã thú, không
có những toan tính lọc lừa dối trá, không có những tên đồ tể chuyên
giết người lương thiện như mụ phù thủy độc ác trong truyện cổ tích.
VyDân
mang theo con két
nhỏ tật nguyền cũng giống như nó. Đầu tiên con két được ai
đó bắt được lúc đi lao động trong rừng, mụ y tá chặn lại đầu cổng
để lấy cho thằng con chơi, con két bị bóp chặt trong bàn tay thô
bạo của nhóc ta, nó mổ mấy cái khiến thằng nhóc nỗi quạu bẻ luôn
cái cánh rồi ném xuống đất. Chỉ chờ có vậy anh tù nhân lượm nhanh con két đem về
chăm sóc, rồi cho lại VyDân, con két bị gảy cánh nên không bay
được, chỉ quanh quẩn trong sân, nó trở thành người bạn thân thiết của
thằng bé trong cuộc sống tẻ nhạt này. Khi Vy Dân nằm ngữa, nó leo lên chân để chuyền qua
lại như trò xiếc, mỗi lần tôi cho con ăn, nó đều leo lên tay chờ đợi
tôi đút cho nó chút cháo... Một hôm tôi đi làm về không
thấy nó đâu, tôi bật kêu như con nít: “Két ơi két đâu rồi?
- Két đây nè.
Tiếng nó cười hăng hắc trong bụi cây
khiến tôi sửng người bất ngờ, Ôi lần đầu tiên tôi nghe con vật
biết nói, nó còn nói nhiều nữa, giả giọng ho, giọng cười, bắt
chước tiếng la “cấp cứu”,
và reo lên mỗi khi tôi bưng chén ra “két ăn cháo,
két
ăn cháo..” Mấy tên
cán bộ hỏi mua nhưng không đời nào tôi bán, tôi mang ý nghĩ lạ lùng
trong đầu là anh ấy đã hóa thân vào con két để an ủi VyDân, chắc thế,
bởi vì nó thông minh và dễ thương như người.
Sau
này nghe chị tôi kể lại hôm đưa VyDân ra phi trường, không thể mang con
két
lên máy bay đi cùng được nên nó ở lại buồn bã bỏ ăn và chết sau đó
mấy hôm. Tôi ngậm
ngùi trong lòng, chắc nó nhớ thằng bé cũng như tôi thôi. Nhưng tôi
không thể chết được, tôi phải “phấn
đấu” để trở về, dù con dế mèn của tôi đang ở cùng
trời cuối đất tôi cũng sẽ tìm ra nó để ôm nó vào lòng.
Mười năm trong tù!
Đã trãi qua nhiều gian nan
vất vả trong cải tạo, tôi nhớ
tới câu nói nửa đùa nửa thật của người
quen “… Khi nào thấy đỉnh núi thấp
xuống trước mắt mình, thấy nắng ở đây không còn nóng lưng, thấy muối
trại giam đã trở thành ngọt trong buổi cơm rau muống, thì lúc ấy
mình sắp về..”
Có lẽ những điều ấy bây giờ
đã đúng với tôi, con đường lầy bùn trơn trợt bên cánh đồng lớn đã
trở nên quen thuộc trong mỗi bước chân đi, những gốc đào thân thiết
trong mùa nhặt hạt, những ô ruộng cấy đã trở nên gần gũi để biết
được độ cứng mềm của lớp đất lúc cắm mạ, lúc sục bùn … Vẫn còn sợ rắn, sợ
đỉa nhưng đã có can đảm để bước tới mà không phải la hét xanh mặt như lúc đầu
mới thấy. Tôi đã quen với khí hậu nắng gió khắc nghiệt ở đây, mưa
dầm sương lạnh, mồ hôi luôn ướt đẫm, tay chân thô kệch cứng ngắt trong mỗi thao
tác lao động, sự già nua khắc khổ vẫn hằn
trên khóe mắt,
nhưng chẳng thay đổi bao nhiêu nét mảnh khảnh ngày nào ..Có vài lần
tôi đã gặp lại tên cán bộ khai cung cũ, họ có vẻ phấn khởi khi thấy tôi cải tạo
tiến bộ hơn (!)
Họ
nhìn gương mặt sạm
nắng của một phụ
nữ thành phố đã quen với gió mưa lao động ở đây “Trông bây giờ chị khiêm tốn giản dị, cởi mở hơn nhiều, khác xa cái lần gặp
gỡ với chị cách đây gần 10 năm, hồi ấy chị kiêu căng, bướng bỉnh làm
sao, chị vặn vẹo chúng tôi cũng điên đầu ấy.”
Lời nhận xét của họ đã
làm tôi cúi mặt dấu nụ cười chua xót. Hừ! 14 năm tù dành cho người
đàn bà còn rất trẻ, không hiểu họ thú vị như thế nào trong lúc
phán quyết số phận của người khác để nhân danh công lý
đàn áp những kẻ bất đồng chính kiến bằng gông xiềng bạo lực và
nhà tù.
Cuộc
gặp gỡ với những
lời động viên sáo rỗng, họ khơi dậy trong tôi tình cảm gia đình, quê hương, họ
nhắc cho tôi nhớ đến sự khoan hồng nhân đạo về chuyến đi xa của thằng
bé tật nguyền …
Và mỗi lần như thế, tôi chỉ
im lặng ngồi nghe, xoa hoài đôi tay chai cứng của mình khi chào đứng
dậy. Cám ơn, tôi cũng hiểu rất rõ điều đó, kêu án
thì phải ở tù thôi, chấp nhận cuộc chơi là có kẻ thua người thắng,
nhưng đừng tưởng cải tạo là làm thay đổi được bản chất của những
người như chúng tôi, đấu tranh với cái xấu cái ác với sự bất
công áp bức cho tới cùng.
Trong cái đáng ghét cũng
có những cái đáng thương, tôi thấy mình thanh thản khoan dung
khi nghĩ về
người khác, không hận thù hậm hực, không phẫn nộ đay
nghiến, tôi vẫn
thầm cám ơn mọi quan tâm giúp đỡ của những cán bộ đã đối xử tốt với mẹ
con tôi trong suốt thời gian sống ở đây, dù sao bàn tay vẫn có ngón
vắn ngón dài.
Tôi nhớ ánh mắt vui mừng
của VyDân mỗi lần gặp “bác ba” trưởng
trại giam, một người miền Nam đi tập kết về, chính ông ta đã
cho thằng bé con gà mái để nuôi lấy trứng ăn, cho phép trồng cây đu
đủ sau trại để có trái bồi dưởng. Sự ưu ái
đặc biệt với VyDân
thôi, vì nội qui trại không được trồng cây cao sợ tù nhân leo trốn
trại. Đôi khi tôi cũng thấy lòng chùn xuống khi nhìn cảnh cha già con muộn, sự đầm
ấm bình yên của gia đình họ, thật tình có bao giờ mình muốn con bé
phải mất cha, cô vợ trẻ phải mất chồng đâu! Thế mà họ lại làm con
mình mồ côi cha, mình thành góa bụa bơ vơ …
Tôi vẫn nhớ một đoạn thư
rất chân tình viết gởi về cho Ba sau khi anh ấy mất…
“Trong một cuộc chiến đấu dù chính đáng hay vô nghĩa, sự chết
sống là lẽ thường tình, con sẽ dạy cho VyDân lòng thương yêu và sự
công bằng, con không muốn nó phải xem kẻ đã giết cha nó là kẻ thù
và những người thân đã bỏ rơi nó bằng ánh mắt thành kiến bất mãn… Quá khứ là một
bài học đau thương mà con cần phải rút kinh nghiệm, chắc chắn cảnh
nồi da xáo thịt sẽ không bao giờ tái diễn trong gia đình chúng ta, Ba đã có một đứa
con hư với tất cả những đau đớn phẫn nộ, con nhớ tới câu nói ví von của ông cán bộ rất già “…chị giống như công
chúa Mỵ Châu đã đem nỏ thần cho giặc, để nước phải mất, nhà phải
tan, ngồi sau lưng Triệu Đà, bị thần Kim Qui chỉ vào mặt: giặc ngồi
sau lưng mi chứ ở đâu đã làm con vừa buồn vừa cười. Nếu phải xóa đi một cái tên trong bản khai lý lịch gia đình, chặt đi một cành khô cho cây nẩy lộc đâm chồi, con nghĩ cũng là điều hợp
lý mà gia đình đừng nên nuối tiếc ..”
Câu chuyện cũng lâu lắm
rồi, đau thương rồi cũng nguôi ngoai dần theo năm tháng, máu chảy ruột
mềm, có lẽ Ba tôi cũng nguôi đi cơn giận dữ, gia đình đã đến với tôi bằng
tất cả những tình thương, khoảng cách còn lại được xóa dần đi trong
những lần chị tôi lên thăm, trong những lá thư động viên thân thiết của
các em tôi từ các nơi gởi về. Rồi ba tôi mất, trong cơn đau cuối đời, ông
đã gọi tên tôi. Lòng tôi chợt se lại rưng buồn, người chết thì luôn được thanh
thản, tôi không muốn nhắc lại quá khứ, dù tôi biết ông rất thương tôi,
nhưng ông vẫn có cái lý của ông …
Mười năm trong tù!
Tôi sống khép mình trong
cái vỏ khiêm tốn, giản dị, mọi nhu cầu vật chất được khắc phục tối
đa, tôi đã biết ăn được tất cả những rau rừng lá núi, biết nấu được
một số món ăn
tạp nhạp nêm nếm bằng muối mà không phải theo khóa gia chánh nào. Tôi
cũng biết cắt may khâu vá những kiểu quần áo đở tốn chỉ, tốn công,
chủ yếu là ăn chắc mặc bền, không lãng phí. Tôi biết được tên nhiều
chứng bệnh lạ lùng và cả cách trị liệu cấp thời mà không phải nhờ
đến thầy thuốc mất thì giờ khám nghiệm, chạy chữ̉a.. Tôi cũng nghe được nhiều thành
ngữ địa phương, biết được những tiếng lóng giang hồ, những xão thuật
ma quỷ trong cuộc sống của giới bụi đời, ăn chơi du đảng,
những thủ đoạn
lừa bịp mất dạy được mang vào từ xã hội bên ngoài. Nói chung là tôi
cũng tiêm được nhiều cái hay, mà cũng nhiễm phải lắm tật xấu, đôi
khi nổi nóng, bực dọc, bộc lộ hung hăng chẳng giống ai, nhưng điều mà
tôi cảm thấy tự bằng lòng với chính mình đã học được trong cuộc
sống hỗn độn ở đây là sự chịu đựng - Chắc vậy! Tôi đã chịu đựng bằng tất
cả lòng kiên nhẫn, đầy vị tha, thông cảm. Môi trường phức tạp làm sao tránh khỏi sự va chạm bực
mình, đôi lúc cái đáng ghét tưởng có thể đạp đổ hết tất cả, nhưng
rồi mọi việc cũng lắng dịu qua đi, sống biết tha thứ, biết nhường
nhịn, chưa bao giờ tôi sử dụng thủ đoạn để khiêu khích hơn thua bất
cứ ai, chưa bao giờ tôi huênh hoang những điều mình trội hơn người khác
hay mặc cảm về sự kém cỏi, thua thiệt của mình. Đằng nào thì cũng
xuề xòa qua loa, điều mà tôi cho là tối kỵ nhất trong cuộc sống tập
thể là ích kỷ, vụ lợi vật chất cá nhân, tính tham lam thói bần tiện. Điều may mắn cho tôi là đã
không “gần mực thì đen” không bị lệ thuộc
bận tâm vì cái vặt vãnh ấy, đói khổ túng thiếu cũng nhiều rồi
nhưng vẫn thấy thoải mái hơn vì đã không bon chen, tranh giành quyền
lợi với đồng phạm, có lúc thua thiệt nhiều quá cũng tự an ủi mình
bằng câu triết lý vụn “Ở bầu thì
tròn ở ống thì dài, miễn cái nước chứa trong ấy vẫn là nước hoa chứ
không phải là nước cống”.
Tôi đã sống hòa đồng với tất cả, có điều tôi
không giống như họ là được rồi! Tôi chấp nhận sự thật, cho dù sự
thật có đáng buồn! Thời gian trôi qua có biết bao điều để suy gẫm, kể
làm sao cho hết một khoảng đời sóng gió lao đao. Tất cả sẽ được ghi lại trong một thiên hồi
ký, nhắc lại trong một bản trường ca diễn lại trong một vở bi
kịch đầy nước mắt thảm não, mà mãi mãi tôi sẽ không bao giờ quên,
không bao giờ xóa nhoà cái dấu ấn khắc nghiệt của cuộc đời, đau nhói
trong mỗ̃i lần hồi tưởng xót xa . . .
Mười năm trong tù!
Tôi còn cái gì và đã mất
cái gì? Những sự mất mát thua
thiệt của tuổi trẻ, cả một thời phí phạm trống rỗng, những cái
tang lớn cứ chồng chất trên đầu, những người thân yêu cứ lần lượt bỏ
đi, còn lại tôi một thân xác bơ phờ và cả tâm hồn chai lì cằn cỗi. Rời khỏi trại giam, ba
mươi mấy tuổi, hai bàn tay trắng, không tài sản, không vốn liếng, không
một nghề ngổng gì ra hồn, chồng mất- con đi xa, tôi vẫn chưa nghĩ ra điều gì cần phải làm ngay.
Lập lại cuộc đời ư? Có
lần tôi đã cười ra nước mắt khi người quen hỏi tôi về điều ấy, mọi
việc sẽ không đơn giản như mình nghĩ, xã hội mỗi ngày mỗi đổi thay,
cuộc sống cứ tiếp diễn Tôi nhớ lời dặn đầy ý nghĩa của người
thầy cũ “..Đừng để bánh xe lịch sử
ấy nó nghiến lấy đời em, dù chỉ chạm vào một ngón chân thôi, cũng
đủ đau điếng rồi .."
Mười năm trong tù!
Thấy mình quê
mùa lạc hậu
làm sao, tôi nghĩ đến ngày về rất xa lạ như cây đã hết nhựa sống, như con ngựa già
đã mỏi đuối chồn chân, tự dưng bi quan vô cùng khi nghĩ về tương lai phía trước! Ba mươi mấy tuổi vẫn thấy
mình ngây ngô khờ khạo trong cuộc sống chung quanh, có thể mình tưởng
như vậy, cái bệnh tưởng đôi khi cũng là điều thất bại.
Hết rồi cái tuổi tung tăng
hồn nhiên, còn nhìn đời qua lăng kính màu xanh màu hồng, còn yêu đời, yêu người yêu
cuộc sống thiết tha, tương lai sao mà mơ hồ quá! Niềm cô đơn hiện tại tưởng chừng như bất
tận, tôi sẽ còn chịu đựng cho đến bao giờ? Nỗi lòng riêng tư thầm kín vẫn là
điều ray rức không nguôi. Cũng có
lúc mơ một mái ấm gia đình, một hạnh phúc thật bình yên, một vòng
tay nâng niu êm ái trong khoảng đời còn lại, nhưng cãm thấy ngại ngùng thế nào,
quá khứ đáng buồn vẫn là điều ám ảnh hoài nghi, cứ sợ vướng bận
chồng con rồi khổ thân lận đận, rồi ngủ quên trong hạnh phúc khoanh
tròn ích kỷ .. Mọi việc bắt đầu đã muộn màng rồi hay sao? Cuộc sống thật tẻ
nhạt, tầm thường nếu không có một mục đích gì cao đẹp hơn, ý nghĩa hơn ..Tôi
nhớ tới câu an ủi của người bạn tù “..Nếu
không làm ngôi sao trên bầu trời rộng, thì hãy làm một ngọn đèn nhỏ trong căn phòng mờ ...” Xã hội bên ngoài luôn xáo
trộn, đầy biến động, đòi hỏi phải biết thích nghi, hòa hợp để chấp
nhận nó, vẫn còn hàng loạt người không thể chịu đựng được và họ
đã bỏ đi, đã bị cuốn hút theo cơn sóng thời cuộc không-thể-làm
khác-hơn được.
Tôi thì chẳng có tham vọng
xuất ngoại, cảnh tha phương cầu thực chắc cũng có lắm điều chua cay, hạnh phúc đâu chỉ có cơm
ngon và áo đẹp, dù tôi biết sự ở lại cũng giống như nhập
vào cuộc chiến
đấu (nói theo thời đại bây giờ -mặt trận mới -chiến đấu chống tiêu
cực) có thể tôi sẽ im lặng cầu an, hoặc tôi sẽ xông xáo vào cuộc,
đằng nào thì cũng một lần chết, có điều tôi không thích làm kẻ yếu
hèn, ích kỷ trong cuộc sống. Thế thôi! Nhưng có một điều trung thực
nhất: Tôi không hề nuôi mộng làm kẻ phi thường để mưu đồ đại sự đội đá vá trời, tôi chỉ muốn làm
người đàn bà với đầy đủ chức năng cao quý của nó, có trái tim biết yêu thương,
giữ tâm hồn
trong sáng, mang ý chí dũng cãm và tạo cuộc sống có mục đích cao đẹp không phải chỉ cho
riêng mình!
Mười năm trong tù!
Không biết có phải là thời điểm để tôi
tổng kết một chặng đường đã qua? Ừ! Thì cứ tạm coi như là đã tổng kết. Ngày
về, có thể rất gần, tôi vẫn chưa hình dung ra giây phút bàng hoàng
đó, tâm trạng buồn vui bất ngờ như thế nào nữa, có thể tôi sẽ tỉnh
bơ như lúc người ta đọc bảng cáo trạng có tên mình trước vành móng
ngựa cách đây 10 năm, hoặc hơi choáng người một chút
vì xúc động
đột ngột, dù sao ở đâu thì quen đó, gần gũi như quê hương của mình,
cho dù có lắm nhọc nhằn gian nan, có nhiều chua cay, tủi nhục, nhưng không thể
nói là không bịn rịn ngập ngừng lúc chia tay.
Vẫn có những điều mà tôi phải thầm cám
ơn cuộc sống, cám ơn con người đã ở quanh đây, chia xẻ cùng tôi mọi
khốn khó trong những năm tháng đau thương cùng tận, mọi buồn phiền xin bỏ lại đằng sau cánh cổng sắt nặng nề đã nhốt
một thời tươi trẻ của tôi, dù tôi biết vẫn có những điều rất nhỏ nhặt vu vơ như
thoáng gió, nhưng tôi cãm thấy nhớ hoài, và có cả nỗi đau đớn xót xa mà tôi sẽ
cố gắng để quên đi...
Mười năm trong tù!
Tôi không thể phủ nhận một sự thật “Quá khứ là kinh nghiệm -hiện tại là
đấu tranh -tương lai là những trang sách mới”. Cứ cho là như vậy
đi, bắt đầu từ con số không to tướng chẳng phải là chuyện dễ dàng,
nếu không có tính kiên nhẫn và lòng can đảm sẵn sàng, tôi sẽ cố gắng để
làm được điều đó, hy vọng mà nói như vậy
Nhìn lại chặng đường gian khổ đã qua, tôi
thật sự rùng mình như vừa qua cơn mộng dữ. Ngày về -tương lai đang
chờ đợi, hy vọng hạnh phúc nhiều hơn là khổ đau, liệu tôi sẽ bắt
đầu như thế nào đây với ngã ba, ngã tư của cuộc đời trước mặt ?! Xúc động bồi hồi chen lẫn
nỗi lo âu bối rối ..Lúc đi có anh ấy, có Vy Dân,
có nỗi lo âu nặng trĩu ..Ngày về chỉ có túi xách nhẹ tênh với vài
cuốn nhật ký, bộ áo tù, khung ảnh của thằng bé đã đi xa và cả những nếp nhăn đầy
phiền muộn trên gương mặt mỏi mòn …
Còn lại một mình! Chắc vậy, hôm qua hôm kia có dịp
nhìn thấy tập hồ sơ dầy cộm của tôi trên bàn làm việc, cái bìa đã
ngã màu vàng củ kỹ, nhàu nát, bên cạnh là tấm ảnh chụp lúc mới
vào trại, nụ cười tươi tỉnh đến lạ lùng, lúc ấy sao mà ngổ ngáo
thế không biết, tôi nhất định cười trong khi tên Công an nhăn nhó cấm cười, bởi vì
anh ta chưa hề thấy một bị can nào lại có thể hồn nhiên trước ống
kính của pháp luật cả, nếu không muốn nói là những gương mặt lấm lét,
hốt hoảng đầy tội lỗi, còn tôi thì khác hẳn, có lẽ lúc đó tôi
chỉ mới hơn 23 tuổi, cái ngạo mạn quái quắt của tuổi trẻ là vậy.
Mười năm rồi còn gì, nhìn lại tấm bìa đã ngã màu làm tôi cứ ngẩn
ngơ suốt buổi. Ghê thật! Cả một khoảng đời thanh xuân của tôi đã chết dí trong
những trang giấy nhòe nhoẹt đầy khắc nghiệt đó!
Ngày về!
Tôi sẽ cố đi thật chậm, thật thanh thản
trên con đường đất đỏ quen thuộc mà tôi đã qua lại hàng trăm nghìn
lần để xuống bãi làm từ bấy lâu nay, con đường mà cách đây gần 8
năm, lúc xe vừa
lăn bánh chuyển từ trại tạm giam lên đây, tên
trưởng trại
chạy theo hỏi vói “Này, chị nhớ xem
còn bỏ quên lại đây cái gì không?” Lúc ấy tôi đã mím chặt môi
bướng bỉnh “còn bỏ quên cả một trại giam” -Hừ! đằng sau khói xe mù
mịt, tôi thấy ánh mắt khó chịu của hắn ta lúc đó, nhưng tôi vẫn
không hề thấy ân hận. Bây giờ, ngày về -tôi sẽ nói câu gì trước mọi
người thân quen, sự im lặng có lẽ hợp lý hơn là phải nói những lời
sáo rỗng, ngoa ngữ …
Mười năm trong tù!
Tôi đã sống, và đã thấy đã hiểu tất cả, có chia sẻ thế mấy cũng không bù
đắp được sự gian khổ, thiếu thốn trong hoàn cảnh này, thôi thì cố
gắng khắc phục, “lâu rồi đời mình
cũng qua mà.”
Mọi người sẽ có lúc “nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm ..”, tôi không tin dị đoan vào những điều vớ
vẩn, nếu lưu luyến thì sẽ còn quay lại lần nữa. Vô lý! Không cố tình vi phạm pháp luật thì
chẳng bao giờ quay lại trại giam, cũng có lắm người đã nguyền rủa, ghê sợ, chán ghét cái
cảnh tù đày, nhưng họ vẫn cứ quay lại, quay lại …Còn tôi, sự chịu
đựng đã thành thói quen tốt, tôi
vẫn thấy lòng thanh thản để tha thứ, để thông cảm cho tất cả, không
hận thù, không
oán trách, dù có những điều thật đáng căm ghét vô cùng!
Ngày về, chắc có buồn có nhớ và có
thương thương, thấy tội nghiệp cho những người ở lại, tôi im lặng trong
nỗi xót xa ray rức, hình như mình vẫn còn thiếu sót điều gì đó không thể nói được, kỷ niệm đau buồn đã qua mà
không thể nguôi ngoai được, có điều ràng buộc vô hình nhỏ nhoi
nào mà tôi
không thể dững dưng khi phải bước quay lưng.
Mười năm trong tù!
Dĩ vãng đau thương rồi cũng phôi
pha, như một
khúc quanh nghiệt ngã trong cuộc đời, tôi nhũ thầm mình : “Hãy đứng dậy và lau khô những giọt
nước mắt bi thảm, sau cơn mưa trời lại sáng kia mà! cứ tin như vậy đi cho đời
bớt khổ”. Tôi xoa hoài đôi tay chai cứng nhỏ nhoi của mình, chẳng biết phải chuẩn
bị cho tương lai cái gì đó thật cần thiết, như vốn liếng tài sản
chẳng hạn, lúc hai đứa bị bắt, người ta đã niêm phong nhà và toà án
tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản, những đồ dùng gia đình, nữ trang,
tiền bạc.
Tôi dửng dưng đến độ không cần
biết mình đã bị mất những gì, tất cả đều trở thành vô nghĩa! Chỉ có sự nằm xuống của
anh ấy là cả một gia tài vô giá, mà tôi đã không thể đánh đổi được
bằng chính sinh mạng của mình. Tôi không hề tiếc những của cải đã
bị lấy mất trong lúc vào tù, cũng như mãi đến bây giờ tôi không biết phải
chuẩn bị như thế nào cho cái vỏ bọc vật chất trong tương lai, dù sao thì cũng quen rồi, khó khăn nghèo túng cũng
đã chịu đựng được từ những năm tháng ở đây, hành trang là lòng can đảm còn lại, tôi mong rằng
mình sẽ tự đứng dậy và vươn lên, cho dù có vấp ngã thật yếu đuối,
nhưng không vì thế mà tôi lại bi quan để chấp nhận sự an bài của định mệnh.
Ngày về!
Có dịp soạn lại số đồ vật linh tinh trong
ngăn kéo, mỗi thứ là một câu chuyện nho nhỏ, đầy vui buồn. Cả mười
năm gom lại kia mà, tập thể thường hay gọi đùa tôi là kẻ giàu nhất ở đây, cũng có thể như vậy bởi
vì tôi có những cái lặt vặt của người ra về trước cho
lại và tôi cất đó để giúp kẻ khác khi họ cần, chia sẻ cho nhau trong cuộc sống
tạm bợ nơi này cũng là biểu hiện tốt của tình người giữa cơn khốn khó
Và bây giờ đến lượt tôi giao lại cái di sản nho nhỏ ấy cho người còn
lại, bạn bè thân quen lần luợt họ sẽ nhận được tài sản của tôi với lời giả từ
-không mong gặp lại ở nơi này hay bất cứ ở trại giam nào khác, nhất
định là như thế!
Mười năm rồi còn gì! Rời khỏi đây, tôi cũng chưa
biết mình sẽ ở địa chỉ nào thuận tiện nhất
cho cuộc sống tương lai, bước đầu phải về SàiGòn, tạm trú với chị em hàng
họ, rồi về quê thăm má, thăm mộ ba, rồi trở ra Phan
Thiết thăm mộ anh ấy, rồi có hàng đống
dự kiến cho tương lai mai mốt...
Nhưng trong số đồ vật linh tinh, điều mà
tôi cãm thấy đau lòng và thắm thía nhất khi tìm kiếm là chiếc chìa khóa cũ kỷ của má tôi,
trong lần lên thăm bà đã cẩn thận nhét vào tay tôi với lời dặn dò
giống như thời tôi còn bé “nhớ đừng
làm mất nhe con, cất đó rồi chừng nào về mà mở rương ra, chớ lỡ má có bề gì…”.
Cầm chiếc chìa khóa mà tôi
đã xúc động đến lặng người, cả một đời Má đã chiu chắt vì con. Chiếc rương chứa đầy những
đồ kỹ niệm của thời đi học, từ cuốn tập dính đầy mực tím, quyển
sách giải thưởng cuối năm học, những tấm ảnh ngây ngô, thư từ, quà
tặng sinh nhật của bạn bè, quần áo cũ, sau khi tôi lấy chồng, rồi
có con, rồi vào tù .
Thời gian chồng chất biết bao là hoang phế, vậy mà Má tôi vẫn gìn giữ những
kỹ niệm của cô con gái bé bỏng của bà, suốt đời Má đã khổ vì tôi! Trong mớ giấy tờ ố
vàng mà tôi còn giữ được là “những bức thơ viết sai
chánh tả” của Má gởi vào trại giam cho tôi, lá thơ nào cũng làm tôi khóc
mướt vì thương Má một đời lận đận khổ đau, cho đến bây giờ mỗi lần
đọc lại, tôi vẫn thấy lòng rưng rưng như Má đang quanh quẩn đâu đây “ba má nhớ con lấm, gán cải tạo tốt để nhà nước
cú sét chở dề sống dới gia đình, chời chở dó, ba con bịnh quài, má
còn khẻo nhưn bán buôn ế lấm”. Chiếc chìa khóa đã ám ảnh
tôi suốt trong những năm tháng buồn tênh hiu quạnh, mà mỗi lần cầm nó
trên tay, tôi lại rưng nước mắt vì nhớ Má “lỡ má có bề gì.” Trời ơi! Tôi cố không nghĩ
đến những mất mát đáng buồn ấy nữa, vậy mà…
Ba Má tôi đều lần lượt qua
đời trong cô đơn nghèo khó ở quê nhà mà không kịp chờ tôi mãn án trở
về.. Tôi như hụt chân đuối sức khi
nhận ra mình bỗng chốc bị mồ côi...Tôi nâng niu kỷ niệm của Má như một
gia tài, tấm lòng Bà Mẹ nào cũng đáng được trân trọng tôn vinh.
Những lá thơ của Má luôn là chỗ dựa yên ấm cho tôi trên bước đường
đời mỏi mệt, ngả nghiêng phía trước
Còn lại một mình!
Tôi xót xa khi nhận ra sự trống vắng đáng
sợ, hơn nữa đời người chợt có lúc thấy bơ vơ làm sao, cuộc sống bên
ngoài thay đổi nhiều quá. Ra khỏi tù tôi có cảm giác như mình vừa
bị hụt chân, chới với. Lạc hậu lỗi thời cũng là
chuyện đã đành, tôi chỉ sợ những mất mát mà mình không thể bù đắp
được.
Ngày về - tôi cũng muốn ước mơ như trẻ con
trong truyện cổ tích, được bà tiên cho ba điều ước: - Niềm tin - Hạnh
phúc -Sự bình yên.
Ngọc Ánh