Vói tay muốn lấy cuốn sách đọc dỡ dang tối hôm qua để đọc tiếp,
nhưng Phượng-Quỳnh vội dừng tay; vì, qua khung cửa sổ, Phượng-Quỳnh vô tình thấy
giàn hoa giấy nhà bên cạnh nở rộ, màu tim tím.
Phượng-Quỳnh không nhớ người láng giềng trồng giàn hoa giấy
từ bao giờ; nhưng Phượng-Quỳnh lại nhớ chỉ ở Nhatrang hoa giấy mới được tưng
tiu, được kết thành giàn che mát hoặc kết theo hình vòng cung trên cổng vào nhà
để tạo vẻ thơ mộng cho ngôi nhà.
Đang nghĩ vẩn vơ chợt nghe điện thoại reng, Phượng-Quỳnh vội
chụp ống nghe, bước nhanh sang chiếc xa-lông nhỏ; vì ngại tiếng nói chuyện sẽ
làm mất giấc ngủ của đứa cháu cưng.
- Allo.
- Cho tôi được tiếp chuyện với bà Phượng-Quỳnh.
- Dạ, tôi là Phượng-Quỳnh. Xin ông cho biết quý danh?
Phượng-Quỳnh không nghe tiếng trả lời mà chỉ nghe một dòng
âm thanh piano rộn rã. Phượng-Quỳnh
nhận ra đây là nhạc sống chứ không phải nhạc băng cho nên cứ lắng nghe.
Từ đầu giây bên kia, tiếng nhạc vẫn vui tươi, rộn ràng, từ
phân đoạn của bản nhạc này chuyển sang phân đoạn của nhạc khúc khác thật tài
tình và chỉ đàn toàn nhạc ngoại quốc. Phượng-Quỳnh không thể đoán được trong số
bạn hữu ai là người có ngón đàn piano
đầy ma lực như vậy.
Càng lắng nghe tiếng đàn Phượng-Quỳnh càng cảm thấy nàng lạc
hậu và quê mùa như một người chưa hề biết gì về âm nhạc; vì nhiều đoạn Phượng-Quỳnh
không nhận ra được tựa đề cũng như âm giai của bản nhạc. Trong khi Phượng-Quỳnh
tủi thân cho sự “tuột dốc” thảm hại của nàng thì từ đầu giây bên kia, theo tiếng
đàn, một giọng nam cất lên. Mấy câu đầu Phượng-Quỳnh nghe không rõ vì giọng người
hát hơi nhỏ. Sau cùng Phượng-Quỳnh nghe được “... Stronger than any mountain cathedral, Truer than any tree ever
grew, Deeper than any forest primeval, I
am in love with you...” (1) Lấy làm lạ, Phượng-Quỳnh
lại lên tiếng “Allo” nhưng vẫn không
ai trả lời.
Phượng-Quỳnh đắn đo, không biết nên tiếp tục lắng nghe hay
là gác ống nghe để đọc sách. Bất ngờ tiếng hát chuyển sang: “Ngày nào một giấc mơ. Đâu những đêm trăng mờ
ai ngóng chờ…” (2) Phượng-Quỳnh ngẩn ngơ, không biết người bạn
nào nghịch mà lại đàn và hát những tình khúc dễ thương đến như vậy! Phượng-Quỳnh
lắng nghe cho đến câu cuối: “...hay đớn
đau vì câu chờ kiếp sau. Trăng úa màu, lệ dâng ướt ngàn sao.” (3) Không dưng Phượng-Quỳnh cảm thấy buồn và nhớ
những ngày Danh và nàng yêu nhau. Ngày xưa đó, mỗi khi giận hờn hoặc hôm nào
Danh không đến điểm hẹn là Phượng-Quỳnh tưởng như trái đất sắp ngừng quay, ngày
tận thế sắp cận kề và tối đó thế nào Phượng-Quỳnh cũng thơ thẩn nhìn Trời mây rồi
rơm rớm nước mắt, hát đi hát lại hai câu này để nghĩ đến Danh.
Tiếng hát ngưng và Phượng-Quỳnh nghe:
- Phượng-Quỳnh.
- Dạ, xin lỗi, ai đầu giây ạ?
- Lâu quá cho nên không nhận ra giọng, phải không? Lân đây.
Lân ngày xưa dạy Lý-Hóa ở Võ-Tánh, nhớ không?
Phượng-Quỳnh vô cùng ngạc nhiên và bối rối, không biết nên
xưng bằng “con” như ngày xưa hay là xưng bằng “em”. Nghĩ lại, Lân cũng không lớn
hơn nàng nhiều nên đáp:
- Dạ, thưa Thầy, vì bất ngờ quá cho nên em không nhận ra. Em
xin lỗi Thầy. Làm thế nào Thầy biết được điện thoại của em?
- Cách nay mấy tuần, nhân buổi họp mặt Võ-Tánh và Nữ Trung-Học,
tôi gặp lại Nghi. Nghi hồi đó cùng học B4 với Phượng-Quỳnh, nhớ không? Tôi hỏi
thăm Phượng-Quỳnh và Nghi cho tôi số điện thoại.
Vì tính hay quên, Phượng-Quỳnh không thể nhớ được nhiều chi
tiết về Lân. Nhưng kể từ ngày Nghi, người bạn gái duy nhất cùng lớp “B” với Phượng-Quỳnh
ngày xưa, nói cho Phượng-Quỳnh biết ngày đó Lân để ý và có cảm tình với nàng
thì Phượng-Quỳnh mới từ từ ôn lại khuôn mặt, vóc dáng, giọng nói và cử chỉ của
Lân.
- Thưa Thầy, khi nói chuyện, em nhận ra giọng của Thầy;
nhưng khi Thầy hát, nhất là khi Thầy hát tiếng Anh em cứ ngỡ là ông Mỹ nào đang
hát.
Lân cười. Phượng-Quỳnh tiếp:
- Thầy cho em hỏi một câu, được không, thưa Thầy?
- Vâng, cứ nói chuyện tự nhiên. Nếu Phượng-Quỳnh tiếp tục gọi
tôi bằng Thầy, tôi sẽ gọi Phượng-Quỳnh bằng... bà đó.
- Thưa Thầy, em quen rồi, đổi không được. Thưa Thầy, Thầy học
piano từ hồi nào? Em nhớ, ngày xưa,
Thầy không chơi đàn mà.
Lân im lặng. Ngày xưa, mỗi khi trường Võ-Tánh tổ chức văn
nghệ tại rạp Tân-Quang, Việt-Quang, Tân-Tân hoặc trên sân khấu lộ thiên nơi bãi
cát phía sau trường, Lân cứ thầm nôn nóng mong chóng đến phần văn nghệ do Phượng-Quỳnh
phụ trách. Khi nghe xướng ngôn viên giới thiệu Phượng-Quỳnh, Lân hồi hộp, sửa lại
dáng ngồi. Phượng-Quỳnh ôm đàn bước ra sân khấu, tươi cười, cúi chào khán giả.
Nhìn Phượng-Quỳnh độc tấu những nhạc khúc ngoại quốc, Lân cảm thấy Phượng-Quỳnh
trên sân khấu và Phượng-Quỳnh, cô học trò duyên dáng, đẹp tự nhiên và rất ít
nói “của chàng” không phải là một. Lân tự hỏi không hiểu Phượng-Quỳnh có biết
chàng đang chú tâm theo dõi từng cử chỉ của nàng – một hành động mà Lân cố tình
giấu kín mỗi khi bước vào lớp B4 – hay không. Khi Phượng-Quỳnh đàn cũng như khi
Phượng-Quỳnh hát, Lân cảm nhận được những xao xuyến, những rung động, những ước
mơ trong lòng. Lân thầm mong sẽ tạo cơ hội để Phượng-Quỳnh nhận biết được tình
cảm của chàng dành cho nàng. Nhưng, suốt mấy năm dạy Phượng-Quỳnh ở các lớp đệ
nhị cấp, Lân chỉ thấy nàng vô tư như trẻ thơ và ngây thơ cho đến độ chưa biết
làm dáng và chưa biết chưng diện như các bạn cùng lứa, cho nên chàng vẫn dè dặt.
Sau khi Phượng-Quỳnh và Nghi rời Võ-Tánh, vào Saigon học Luật, nhiều lần Lân tự trách tại sao chàng quá
kín đáo, đắn đo và rụt rè. Nhưng không kín đáo, đắn đo sao được khi mà nền đạo
lý Á-Đông còn quá khắc khe đối với những người chọn ngành mô phạm!
Gặp lại Phượng-Quỳnh khi nàng trở lại thăm trường cũ, Lân thấy
Phượng-Quỳnh có vẻ bạo dạng hơn trước, Lân vui thầm. Chàng hy vọng sẽ tạo cơ hội
gặp lại Phượng-Quỳnh. Nhưng khi Lân vào lớp – lớp cũ của Phượng-Quỳnh và Nghi –
trên lầu, nhìn xuống cổng chính, thấy Phượng-Quỳnh thướt tha đến bên một thanh
niên đang ngồi chờ trên Vespa rồi nàng ngồi vào yên sau thì niềm hy vọng của
Lân tan đi! Lân nghẹn ngào quay mặt nhìn lơ chỗ khác. Về sau Lân mới biết người
lái Vespa hôm đó là Danh, một người bạn lớn lên cùng thành phố với Lân.
Từ hôm đó, ý nghĩ “đi lính” cứ lãng vãng trong lòng Lân; vì
Lân cảm thấy buồn về mối tình đơn phương. Nhưng rồi Lân tìm được một giải pháp
khác hay hơn để xoa dịu niềm thất vọng. Chàng học piano để được đàn những bản nhạc mà Phượng-Quỳnh đã đàn và đã hát;
và cũng để có cơ hội được trút xuống phím piano
nỗi buồn thầm kín trong lòng. Vì vậy Lân đáp:
- Tôi học piano
lâu rồi. Nhưng piano dễ, không phải
mang vào người như accordéon của Phượng-Quỳnh.
- Dạ, em không nhớ tại sao ngày đó em lại chỉ thích đàn accordéon thôi.
Nói ngang đây Phương-Quỳnh vội cải chính:
-Ô, thưa Thầy, em nhớ rồi.
-Nhớ gì?
-Em thích accordéon vì hình ảnh của Dean Martin trong những
phim ca nhạc. Thầy nhớ Dean Martin không, thưa thầy?
-Nhớ chứ sao không. Dean Martin không những đàn hay mà hát
cũng hay nữa.
-Dạ. Em thích anh chàng đó lắm.
Lân chuyển đề tài:
- Phượng-Quỳnh và Danh vẫn khỏe chứ?
- Dạ, cảm ơn Thầy. Thầy muốn nói chuyện với anh Danh, phải
không ạ?
- Tôi mới gặp Danh tại phi trường Los Angeles cách nay khoảng hơn một tháng, đã
thăm hỏi nhau rồi. Tý nữa sẽ nói chuyện thêm với Danh, bây giờ nói chuyện với
Phượng-Quỳnh, có chi trở ngại không?
- Dạ, thưa Thầy, không.
- Phượng-Quỳnh dạo này chắc đàn tuyệt lắm, phải không?
Phượng-Quỳnh cảm thấy khó thở như ai vừa “đấm” vào ngực
nàng! Phải vài tích tắc sau Phượng-Quỳnh mới đáp được:
- Thưa Thầy, em bỏ đàn từ mấy mươi năm nay rồi!
Lân thảng thốt, tưởng như chàng nghe nhầm:
- Hả? Phượng-Quỳnh nói gì?
Phượng-Quỳnh lập lại câu nói. Cả hai cùng im lặng. Nén tiếng
thở dài, Lân hỏi:
- Tại sao vậy, Phượng-Quỳnh?
- Dạ, vì “ông bạn” của Thầy không thích.
Im lặng. Tiếng piano
“rơi” nhè nhẹ, rời rạc, văng vẳng. Một lúc lâu Lân hỏi:
- Danh nói thẳng với Phượng-Quỳnh là Danh không thích Phượng-Quỳnh
đàn hay sao? Tôi nghĩ ngày đó Danh biết Phượng-Quỳnh chơi đàn mà, phải không?
- Dạ, ngày đó anh ấy biết em chơi đàn nhưng về sau anh ấy
thay đổi, làm sao em biết được. Anh ấy không nói thẳng với em; anh ấy chỉ nói
những câu khó chịu, em không thích nghe cho nên em bỏ đàn luôn để anh ấy không
có cơ hội dùng những câu đó với em nữa. Còn Thầy, cô có thích Thầy đàn và viết
hay không?
- Nhà tôi và tôi không còn sống với nhau từ lâu rồi.
Phượng-Quỳnh thoáng giật mình. Lần Phượng-Quỳnh về Việt-Nam
cách nay hai năm, vào hôm họp mặt bạn hữu, các bạn cho Phượng-Quỳnh biết tin thầy
Lân trở về đời sống độc thân, nhưng vì tính hay quên, Phượng-Quỳnh không nhớ.
Phượng-Quỳnh chỉ nhớ các bạn nhao nhao hỏi nàng là tại sao ngày đó không “chịu”
thầy Lân? Phượng-Quỳnh đáp rất thật lòng: “Có
biết Thầy để ý mình đâu mà chịu với không chịu?” Anh bạn cao lêu nghêu,
ngày xưa ngồi bàn cuối, bảo: “Chính tôi
nghe thầy Lân nói với thầy Hảo là Phượng-Quỳnh có nụ cười rất đầm và cái cằm chẽ
đôi.” Phản ứng tự nhiên, Phượng-Quỳnh đưa tay sờ cằm. Cái lũng sâu nho nhỏ
nhưng vô cùng duyên dáng ngay giữa cằm, ngày xưa đã làm mê mệt nhiều chàng
trai, nay không còn nữa. Một cô bạn Huế, ngày xưa cùng trong ban văn nghệ với
Phượng-Quỳnh, cười dòn: “Vô lý. Trong khi
toàn trường ai cũng biết Thầy để ý nhà ngươi mà tại răng nhà ngươi lại không biết?”
Phượng-Quỳnh ngẫn người, không biết nên buồn hay nên vui. Bây giờ nghe Lân hé lộ
chuyện gia đình của Lân, Phượng-Quỳnh mới chợt nhớ:
- Dạ, em xin lỗi đã vô tình khơi lại chuyện buồn của Thầy.
- Có chi mà buồn. Đời là vô thường. Trở lại nguyên nhân Phượng-Quỳnh
bỏ đàn. Danh nói như thế nào, Phượng-Quỳnh thử lập lại đại ý xem?
- Dạ, mỗi khi em đàn, anh Danh thường bảo: “Đờn gì mấy bài lạ huơ lạ hoắt, không ai biết
mà cũng đờn; còn mấy bài như Lính Dù Lên Điểm, Anh Là Lính Đa Tình hay thấu Trời
sao không chịu đờn? Đờn mà không ai hiểu, không ai biết thì đờn địch làm chi
cho mất công? Dẹp đi cho rồi!”
Trong khi Lân nghẹn lời trước một câu nói phủ phàng như vậy
thì Phượng-Quỳnh lại liên tưởng đến những câu nói khác, cũng của Danh. Vào những
dịp họp mặt bằng hữu, thấy Phượng-Quỳnh được bạn bè tỏ ra thương mến hoặc khen
ngợi bao nhiêu thì trên đường về nhà Danh cũng nói những lời độc hại, làm tổn
thương Phượng-Quỳnh bấy nhiêu! Mỗi khi biết Phượng-Quỳnh nghe nhạc ngoại quốc,
Danh “xì” một tiếng rồi bảo, nghe chi ba thứ nhạc đó, bộ mất gốc rồi hả? Nếu nhạc
bán cổ điển hoặc nhạc hòa tấu hay độc tấu, Danh bảo, nghe thứ nhạc gì mà toàn đờn
không, buồn ngủ thấy bà. Phượng-Quỳnh nghe Smooth
Jazz, Danh bảo, thứ đồ nhạc của tụi đen mà cũng nghe. Khi thấy Phượng-Quỳnh
trang điểm, Danh bảo, “bôi quẹt” để làm gì? Trẻ trung gì nữa mà bày đặt. Phượng-Quỳnh
còn nhớ, ngày nàng mới sinh xong đứa con đầu lòng, Danh dằn mặt, gần “băm” (ba
mươi) rồi, không còn trẻ nữa đâu nghe, cô; Phượng-Quỳnh trên ba mươi, Danh bảo,
gần nửa đời người rồi, còn gì nữa mà “bôi quẹt”; Phượng-Quỳnh trên bốn mươi là
tuổi...về vườn! Phượng-Quỳnh mặc áo màu tươi, Danh quặu, bảo chồng con đầy đàn
mà còn bày đặt chưng diện? Phượng-Quỳnh mặc áo màu đậm, Danh lại bảo: Mặc mấy
màu gì quê mùa quá vậy? Khi bắt gặp Phượng-Quỳnh gửi check mua báo dài hạn,
Danh bảo, tiền cô không biết xài vào đâu hay sao mà mua báo dài hạn? Sang quá
mà! Báo người ta chất cả đống ngoài chợ, đi chợ sao không lượm về đọc mà lại
mua? Giàu rồi đó! Phượng-Quỳnh nghiệm ra rằng, chưa bao giờ Danh hài lòng và
cũng chưa bao giờ Danh đừng tìm cách chê bai hoặc dè bỉm về những điều nàng
làm!
Trong khi Danh cố tìm những khuyết điểm của Phượng-Quỳnh để
chỉ trích và Danh bịa những chuyện không thật về nàng để làm đề tài cho bạn bè
cười trong những lần họp mặt thì, đối với mọi người – nhất là những người có tiền
hoặc có chút địa vị xã hội – Danh tìm đủ mọi cách làm quen, để rồi không tiếc lời
ca tụng, tâng bốc cho nên nhiều người thích Danh, nghĩ rằng Danh là người bặt
thiệp.
Mỗi khi nghe những câu Danh nịnh bợ người khác một cách sống
sượng rồi nghĩ đến những câu Danh cố tình “hạ” nàng, Phượng-Quỳnh chỉ nhìn Danh
một cách ngán ngẩm rồi đi lơ chỗ khác, cảm thấy đau trong lòng. Bất cứ điều gì
hay ho, đẹp đẽ hoặc thành công của bạn hữu hay của gia đình, Danh cũng đều bảo
với mọi người là do công trạng của chàng cả; còn những gì không tốt hay thất bại
thì Danh đổ lỗi cho Phượng-Quỳnh.
Cũng với luận điệu tương tự, ngày xưa, thấy Danh đam mê tửu
sắc, bỏ bê vợ con, nhiều người khuyên ngăn Danh, Danh đáp tỉnh bơ: “Tôi hư là tại bả.” Các bạn ngạc nhiên: “Bả làm gì mà tại bả? Tụi tao thấy bả hiền
quá mà.” Danh gạc phăng: “Hiền! Bả mà
hiền! Hiền, cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai! Thôi, tụi bay đừng có nịnh. Bả
đâu có mặt ở đây đâu mà tụi bay nịnh. Nhậu tiếp đi. Tao còn phải đưa em Ánh-Mộng
của tao về để tao...làm thịt!” Sau khi nghe bạn bè lập lại những câu như vậy,
Phượng-Quỳnh cật vấn Danh, Danh chối dài, thề độc và bảo chàng không phải là một
người đàn ông hèn hoặc ngu mà đi “hạ” vợ trước mặt bạn bè. Phượng-Quỳnh phân
vân, không biết tin ai! Nhiều khi Phượng-Quỳnh tự hỏi, tại sao nàng không thể
quên được những câu cay độc, những điều xót xa do Danh đem đến mà nàng lại quên
những điều tốt đẹp trong cuộc đời! Bây giờ chỉ lập lại cho Lân nghe một câu
thôi mà Phượng-Quỳnh cũng vẫn còn cảm thấy tê tái trong lòng.
Lân hỏi:
- Rồi Phượng-Quỳnh trả lời như thế nào?
- Dạ, anh ấy không thích em đàn thì em bỏ, cho yên chuyện.
Đó cũng là một câu né tránh của Phượng-Quỳnh; vì thật ra
nàng có phản ứng một cách ôn hòa. Nhưng Danh là một người đàn ông vũ phu. Khi
nào bị Phượng-Quỳnh nói đúng tâm lý mà Danh không thể biện luận được, Danh sẽ
đánh Phượng-Quỳnh không nương tay và nói những câu thô lỗ, nặng nề hơn nữa để
nàng ngượng, không trả lời được, phải im. Đôi khi Danh còn “cúp”, không đưa tiền
đóng tiền học cho các con: “Trường công của
chính phủ, khỏi tốn tiền, sao không cho tụi nó học mà bày đặt học trường Tây?Muốn
làm sang, cho tụi nó học trường Tây thì cho bà giúp việc nghỉ đi, lấy tiền đó
mà đóng tiền học cho tụi nó.” Phượng-Quỳnh muốn đi làm để khỏi lệ thuộc vào
Danh. Danh phản đối dữ dội: “Tôi đâu có bỏ
cô chết đói mà cô đòi đi làm để bỉ mặt tôi!” Phượng-Quỳnh đành im lặng, ôm
trong lòng niềm thất vọng, nỗi chán chường về người đàn ông mà ngày xưa đã thề
thốt và nói với nàng những điều không thật để du nàng vào con đường tình không
lối ra!
Không những Danh luôn nói những điều không thật mà Danh còn
có tài chối bừa, không sượng mặt. Phượng-Quỳnh vẫn nhớ, ngày đó, khi nào Phượng-Quỳnh
“trúng” một “áp-phe” là Danh về nhà ngọt ngào, năn nỉ nàng trả giùm những món nợ
do Danh “lầm lỡ” gây ra, và Danh thề độc là sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Phượng-Quỳnh
muốn đích thân nàng đem tiền đi trả để có dịp nói riêng với người bạn đó đừng
cho Danh mượn tiền nữa. Dường như Danh hiểu dụng ý của Phượng-Quỳnh cho nên
Danh không đồng ý. Danh bảo chàng mượn thì để chàng đem trả chứ Phượng-Quỳnh
đem đến trả sẽ làm mất thể diện của chàng. Phượng-Quỳnh nhẹ dạ và vẫn còn tin
tưởng Danh cho nên giao tiền cho Danh đi trả.
Lần nào cũng vậy, Danh không đem tiền đi trả mà Danh dùng số
tiền đó “rải” đều cho các em vũ nữ tại vũ trường, đưa các em ca sĩ vào những
nhà hàng sang trọng và đem bồ đến sòng bài để chứng tỏ sự “chịu chơi” của Danh.
Vài tuần sau, hết tiền, Danh lại nhắc Phượng-Quỳnh tại sao chưa trả những số nợ
đó. Phượng-Quỳnh bảo: “Em đưa cho anh đem
đi trả rồi mà.” Danh nhìn thẳng vào mắt Phượng-Quỳnh rồi chối tỉnh bơ: “Đưa
hồi nào?Em cứ đòi chính em đem tiền đi trả chứ em đâu chịu đưa cho anh.
Tính em hay quên rồi em đổ thừa.” Phượng-Quỳnh tự biết tính nàng hay quên
cho nên nửa nghi nửa ngờ, đành im. Lâu dần, sự lừa dối trắng trợn và sự đổ thừa
đầy dã tâm của Danh cứ được Danh lập đi lập lại hoài khiến Phượng-Quỳnh đâm ra
lo sợ, hoài nghi và không tin bất cứ một người nào và cũng không còn tin tưởng
vào chính nàng nữa. Mãi đến khi sang Mỹ, Phượng-Quỳnh mới biết vì Danh mà nàng
bị Obsessive Compulsive Disorder!
Riêng Lân, chàng biết Phượng-Quỳnh là một cô gái hiền lành
cho nên Lân không ngạc nhiên vì câu nói của nàng mà chỉ cảm thấy xót xa, cay đắng
trong lòng. Lân biết chàng không nên nói
gì trong lúc này nên im lặng.
Phượng-Quỳnh nghe tiếng thở dài của Lân rồi từng tràng hợp
âm trầm vang xa. Chỉ một thoáng thôi, tràng hợp âm đó trở nên cuồng loạn. Phượng-Quỳnh
có cảm tưởng như Lân đang trút tất cả tức giận của chàng lên phím đàn. Một lúc
sau, có lẽ đã bình tâm trở lại, Lân chuyển sang một nhạc khúc êm dịu, thiết tha. Trong lúc Phượng-Quỳnh còn
nhíu mày, cố nhận ra dòng nhạc thì giọng Lân khe khẻ: “Hay quá! Đoạn này chuyển sang Mineur, tuyệt quá!” Câu nói của Lân
khiến Phượng-Quỳnh đau đớn, tủi buồn nhận ra sự “dốt nát” của nàng sau mấy mươi
năm xa lìa thế giới âm nhạc! Câu nói của Lân cũng khiến Phượng-Quỳnh nhớ đến
ông Ngữ, thân phụ của nàng.
Ngày xưa, nhiều khi đang đàn, Phượng-Quỳnh nghe tiếng dép lẹc
xẹc rồi giọng ông Ngữ: “Con! Con đàn lại
đoạn đó cho Ba nghe.” Phượng-Quỳnh ngạc nhiên: “Ủa, con đàn sai, phải không, Ba?” Ông Ngữ khoác tay: “Không. Không phải. Ba muốn nghe lại vì đoạn
đó chuyển sang Mi Mineur tuyệt quá. Sự chuyển âm đột ngột này tụi Tây gọi
là...” Ông Ngữ tuôn một tràn tiếng Pháp mà đến nay không thể nào Phượng-Quỳnh
nhớ được! Bây giờ nghe Lân nói một câu tương tự, Phượng-Quỳnh nhớ Cha và thương
cho công khó của người Cha đã dạy nàng đàn. Tủi thân, Phượng-Quỳnh gục mặt vào
lòng bàn tay, muốn khóc nhưng khóc không được!
Trước sự hủy diệt của thời gian và luật vô thường, Phượng-Quỳnh
bất lực, đã đành; còn trước sự hủy diệt có chủ tâm của một người đàn ông dành
cho nàng tại sao Phượng-Quỳnh cũng cúi đầu câm lặng suốt mấy mươi năm qua? Nhiều
khi Phượng-Quỳnh nghĩ rằng nàng hèn. Nhưng không hèn sao được khi mà Phượng-Quỳnh,
vì danh dự gia đình, vì tự ái cá nhân, không muốn ai biết được sự nhầm lẫn của
nàng. Phượng-Quỳnh không muốn các con không có cha và cũng vì Phượng-Quỳnh được
nuôi dạy theo “nền đạo lý thánh hiền(!)
Con gái mười hai bến nước; trong nhờ, đục chịu!”
Không muốn nhớ lại những chuyện buồn xưa, Phượng-Quỳnh nghĩ
cách chuyển đề tài. Chợt nhớ đến tác phẩm Lân viết cách nay gần nửa thế kỷ, Phượng-Quỳnh
hỏi:
- Dạ, thưa Thầy, Thầy còn giữ tác phẩm Nỗi Buồn Ngày Tháng
Cũ không, thưa Thầy?
- Tuyệt bản rồi. Phượng-Quỳnh thích cuốn đó à?
- Dạ.
Im lặng. Lân thở dài, nhớ lại buổi sáng Chủ Nhật năm xưa,
Lân buồn buồn đi dọc bờ biển thì gặp Phượng-Quỳnh và Danh đẩy chiếc xe có em bé
gái nằm ngủ bên trong. Lân và Danh vồn vã bắt tay, chuyện trò nhưng trong lòng
Lân lại vang lên nhiều câu tự trách. Như không chịu đựng được lâu hơn nữa trước
một thực thể không thể cứu vãng, Lân lấy từ cặp-táp cuốn Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ
vừa mới xuất bản, viết “Tặng Danh và Phượng-Quỳnh
với những kỷ niệm ấu thơ còn đó” rồi vội vã chào tạm biệt. Bắt tay từ giã
Lân, Danh hỏi: “Lâu ngày mới gặp lại,
chưa kịp thăm hỏi gì cả thì mày đòi đi. Đi đâu mà vội vậy?” Lân cười buồn: “Tao đi bắt con giã tràng!”
Lúc đó, nghe câu trả lời của Lân rồi đọc nét chữ quen thuộc
của Lân, Phượng-Quỳnh không nghĩ gì xa xôi. Nhưng sau khi nghe Nghi rồi các bạn
bên Việt-Nam kháo nhau Phượng-Quỳnh mới ngẫm nghĩ lại và nàng nhớ một câu trong
tác phẩm đó. Phượng-Quỳnh muốn nhân cơ hội thân mật này hỏi Lân xem đó là sự
trùng hợp hay có điều gì khác.
- Thưa Thầy, có một câu trong tác phẩm Nỗi Buồn Ngày Tháng
Cũ mà em cứ thắc mắc, vì không hiểu được dụng ý của tác giả. Thầy cho phép em hỏi
Thầy câu đó hay không?
- Hỏi đi.
- Thưa Thầy, em không nhớ trang mấy, nhưng trong truyện ngắn
đầu tiên, có đoạn: “...Điệp là con ông Ngữ
ở Nha-Trang. Điệp có nụ cười rất đầm và cái cằm chẻ đôi...” Ông Ngữ là tên
của Ba em còn Điệp là ai, thưa Thầy?
Lân giật mình, không ngờ một chi tiết nhỏ như vậy mà Phượng-Quỳnh
còn nhớ. Như vậy có thể Phượng-Quỳnh đã biết được tình yêu đơn phương của
chàng? Suốt mấy mươi năm qua, kể cả thời gian Lân sống hạnh phúc với vợ con,
chưa bao giờ hình dáng của Phượng-Quỳnh phai nhòa trong tâm trí chàng. Gần đây,
hình dáng của Phượng-Quỳnh càng rõ nét hơn vì Lân nghe học trò cũ, cũng như
Nghi, cho biết Phượng-Quỳnh trải qua rất nhiều đau khổ và luôn luôn sống trong
sự chịu đựng dai dẳng và nặng nề. Nghe như vậy, Lân động lòng, muốn tìm cách an
ủi Phượng-Quỳnh. Nhưng khi biết dường như Phượng-Quỳnh đã lờ mờ nhận ra được
tình cảm của Lân đối với nàng thì Lân lại ngại. Sự mâu thuẫn này cũng như sự
nhút nhát khi xưa khiến Lân đáp không kịp suy nghĩ:
- Thôi. Thôi. Cấm, không cho hỏi nữa; để tôi đàn tiếp cho mà
nghe.
Phượng-Quỳnh cười. Lân tiếp:
- Ngày đó Phượng-Quỳnh đàn, nhiều người chết vì Phượng-Quỳnh.
Bây giờ tôi đàn, không biết có chinh phục được một người hay không!
Phượng-Quỳnh lại cười, rất bằng lòng khi biết được sự nghi
ngờ của nàng cũng như những lời “nhao nhao” của nhóm bạn xưa đã được Lân xác định
một cách gián tiếp.
Lân cũng rất vui khi hiểu được rằng, một phần nào đó, Phượng-Quỳnh
đã biết được tình yêu thầm kín Lân đã dành cho nàng. Lân lướt nhẹ và rất nhanh
mấy ngón tay của bàn tay phải lên phím đàn rồi tay trái hòa vào, tạo nên dòng Tango rộn rã. Vừa đàn Lân vừa hỏi:
- Phượng-Quỳnh nhớ bản này không?
Giọng của Phượng-Quỳnh có vẻ ngường ngượng:
- Dạ, không.
Lân ngạc nhiên:
- Hồi đó Phượng-Quỳnh thường đàn bản này lắm mà.
Phượng-Quỳnh lại muốn khóc vì nàng vẫn không nhớ được! Phượng-Quỳnh
nhìn hai bàn tay của nàng đã nhăn nhúm, rồi nhìn đứa cháu nội đang nằm ngủ nơi
ghế xa-lông. Mỗi cuối tuần mới giữ cháu được một lần vậy mà Phượng-Quỳnh cũng
nhận ra con bé lớn nhanh quá. Càng lớn con bé càng mủm mỉm và càng giống Phượng-Quỳnh
vì sóng mũi cao, thẳng và cái lúm sâu giữa cằm. Nhiều người bạn vô tình khen; “Con bé xinh quá, trông giống Bà Nội ghê.” Không
thể nào chịu được khi phải nghe một lời khen như vậy, Danh “phản pháo” liền: “Con nhỏ này mà xinh gì, đừng có nịnh.”
Các bạn nhìn Phượng-Quỳnh, chờ đợi sự phản ứng của nàng. Phượng-Quỳnh chỉ cười
lạc, nói lơ chuyện khác.
Vì bị phân tâm, Phượng-Quỳnh không thể biết được Lân đã chuyển
sang nhạc khúc khác. Lân hỏi:
- Bản này, nhận ra không?
- Dạ, em nhận ra nhưng em không nhớ tựa và tác giả.
Lân ngạc nhiên tột độ. Ngày đó, nam giáo sư độc thân cùng
thuê chung một ngôi biệt thự ở Xóm-Mới. Sân trước, hoa giấy được kết thành giàn
rồi uốn vòng hình cánh cung trên hai trụ gạch nơi cổng. Vào những dịp lễ, Lân
cùng các bạn thường tổ chức tiệc, mời các bạn đồng môn và những học sinh có
năng khiếu văn nghệ để bữa tiệc thêm phần khởi sắc. Trong những dịp như vậy
không thể nào thiếu Phượng-Quỳnh.
Trước khi nhập tiệc, nhạc thời trang hoặc nhạc bán cổ điển
được mở lên, đem đến không khí ấm cúng cho ngôi nhà. Phượng-Quỳnh thường lặng lẽ
ngồi một mình trong góc, lắng nghe. Thỉnh thoảng Lân giả vờ lấy cái này, đổi
cái nọ để đến cạnh Phượng-Quỳnh, hỏi nàng về những dĩa nhạc đang nghe xem nàng
có thích hay không. Rất nhiều lần Lân hỏi Phượng-Quỳnh về những nhạc khúc thời
trang cũng như bán cổ điển Tây phương; lần nào Phượng-Quỳnh cũng nhận ra và nói đúng tên người hát và tên tác
giả. Một lần Lân hỏi Phượng-Quỳnh thích nhạc của ai nhất và ai nhì. Phượng-Quỳnh
đáp: “Dạ, thưa Thầy, con thích Franz
Liszt và Strauss.” Vậy mà bây giờ....Lân than:
- Trời! Liszt! Franz Liszt. Ngày đó Franz Liszt là “ruột” của
Phượng-Quỳnh mà sao nay vô tình quá vậy?
Sau một thoáng bàng hoàng, Phượng-Quỳnh reo lên:
- Em nhớ rồi. Liebestraum.
Phượng-Quỳnh xúc động quá, ngồi bệt trên thảm, để tâm hồn
quyện theo dòng âm thanh dịu dàng, thiết tha, trầm thống và đầy u uất của tình
khúc được viết theo âm giai Do Majeur,
thể điệu Tempo di Valse. Theo dòng âm
thanh phù thủy của Lân, Phượng-Quỳnh tưởng như nàng có thể thấy lại dáng vóc
cao, gầy và nét mặt nghiêm nghị của Lân mỗi khi Lân chạy Vespa vào cổng chính của
trường trong khi Phượng-Quỳnh cùng các bạn đi vào bằng cổng nhỏ bên cạnh.
Lân khen:
- Giỏi. Vậy Phượng-Quỳnh còn nhớ mối tình vương giả của
Liszt không?
Một lần nữa Phượng-Quỳnh lại cảm thấy hụt hẫng như một bà
nhà quê đi thi vào quốc tịch Mỹ, bị hỏi, hãy nói tên vị tổng thống Hoa-Kỳ có
liên hệ trong cuộc đổ bộ vào vịnh Con Heo (Bay of Pigs) tại Cuba :
- Dạ, em không nhớ. Em chỉ nhớ, ngày xưa Ba em có kể cho em
nghe về mối tình không trọn của Franz Liszt nhưng em không nhớ là với ai.
- Với công nương Carolyne Sayn Wittgenstein.
Lân vừa đáp vừa tiếp tục đàn. Phượng-Quỳnh im lặng, chăm chú
nghe. Một lúc sau Lân ngưng đàn, bảo:
- Bây giờ Phượng-Quỳnh cho tôi nói chuyện với thằng bạn già
của tôi một chốc, nhé.
Phượng-Quỳnh lúng túng:
- Thưa Thầy, anh Danh không có ở đây.
- Bao giờ Danh về để tôi gọi lại?
Phượng-Quỳnh không biết phải đáp như thế nào. Nói dối thì khó,
vì không biết phần nào nên dối, phần nào nên thật; mà nói thật thì ...nói những
gì?
Nhận ra được điều không ổn, Lân dục:
- Phượng-Quỳnh.
- Dạ.
- Có gì trở ngại, phải không?
Phượng-Quỳnh lính quýnh, ngại Lân hiểu lầm:
- Dạ không. Thưa Thầy, lúc nãy Thầy bảo rằng Thầy đã gặp anh
Danh cách nay hơn một tháng, tại phi trường Los Angeles, đúng không, thưa Thầy?
- Vâng.
- Thưa Thầy, hôm đó anh Danh có nói gì nhiều với Thầy không?
- Không. Danh chỉ bảo là Danh được một công ty lớn của Mỹ chỉ
định qua Việt-Nam điều nghiên về việc đầu tư cả mấy tỷ Mỹ kim.
Phượng-Quỳnh vội đưa tay che miệng để khỏi thốt ra tiếng
than “Trời!”
Từ ngày Danh, Phượng-Quỳnh cùng các con vượt biển sang đây,
chỉ sống nhờ vào ngành bán tạp hóa. Lúc đầu vợ chồng làm cho công ty 7-11; sau,
hai vợ chồng để dành được ít tiền rồi vay thêm ở ngân hàng, sang được một tiệm,
tự làm chủ. Gần đây Danh năn nỉ Phượng-Quỳnh nên bán tiệm tạp hóa, về hưu non
cho khỏe, có thì giờ đi chơi và lo cho cháu. Hơn nữa dạo này tiệm của mấy người
bạn bị cướp hoài, Danh ngại rủi thằng khùng nào vào cướp rồi “thảy cái bùm” thì
uổng cuộc đời. Phượng-Quỳnh đồng ý vì thấy đề nghị của Danh rất hợp lý. Với luận
điệu ra giá cao khó bán, lại phải trả tiền thuê chỗ, Danh ra giá rất hạ để bán
cho nhanh. Phượng-Quỳnh cứ nghĩ rằng Danh đã có tuổi, có lẽ Danh đã hồi tâm, thật
lòng muốn vợ chồng cùng sống già bên nhau cho nên Phượng-Quỳnh không cản trở gì
cả.
Bán tiệm xong, Danh nằn nặc đòi về Việt-Nam thăm Mẹ. Phượng-Quỳnh
muốn cùng về với Danh. Nhưng Danh nêu nhiều lý do, nhất là lý do Phượng-Quỳnh
đã về cách nay hai năm rồi, về làm chi nữa, tốn tiền, rồi bỏ cháu không ai lo.
Danh hứa chỉ về hai tuần rồi trở qua.
Sau khi Danh về Việt-Nam, Phượng-Quỳnh mới vô tình khám phá
mối-tình-i-meo (e-mail) giữa Danh và một cô gái bên Việt-Nam, trẻ bằng tuổi cô
con gái út của Danh. Hai người thề ước nặng lời. Không thể nào Phượng-Quỳnh
quên được một câu Danh “gõ” cho cô đó: “Em
đừng lo. Theo luật của tiểu bang này, hễ vợ chồng không còn chung sống với nhau
hơn sáu tháng là kể như...xù. Bằng mọi cách anh sẽ về bên em để em giúp anh tìm
lại tuổi thanh xuân mà người vợ miệt vườn của anh đã không tạo được cho anh lúc
anh còn trẻ.” Phượng-Quỳnh không cảm thấy đau khổ nữa, vì tâm hồn đã chai lỳ;
nhưng Phượng-Quỳnh lo cho số tiền lớn vừa mới bán tiệm tạp hóa.
Phượng-Quỳnh tức tốc ra ngân hàng. Nữ trang và tiền mặt để
trong Safe Deposit Box biến mất. Checking Account chỉ còn hơn năm trăm đô-la;
đó là tiền hưu của Phượng-Quỳnh mà chính phủ chuyển trực tiếp hằng tháng vào
trương mục. Còn tiền hưu của Danh được Danh yêu cầu chuyển về địa chỉ nào đó,
ngân hàng không thể tiết lộ. Các trương mục hưu bỗng IRAs và 401K của Danh đều
bị đóng từ lâu.
Cố kềm nước mắt, Phượng-Quỳnh vội vàng đi ra cửa, chưa biết
phải hành động như thế nào thì gặp Thúy, người bạn quen từ lúc vượt biển, từ
ngoài đi vào. “Chị Danh. Chị làm gì mà mặt
mày xanh lè, bộ tịch hớt hơ hớt hãi vậy?” Phượng-Quỳnh gượng cười, nói dối:
“Ô, thưa chị. Anh chị khỏe chứ?Riêng tôi,
trong người không được khỏe.” Thúy cười, ra vẻ bí mật: “Tụi tôi mới ở Việt-Nam về được mấy hôm. Tụi tôi gặp anh Danh bên đó.”
Phượng-Quỳnh hơi mất bình tĩnh vì nàng cảm thấy xấu hổ nếu ai biết được việc
làm thất đức của Danh: “Dạ, anh ấy về
thăm bà cụ. Anh ấy sắp trở qua rồi.” Thúy háy nhẹ Phượng-Quỳnh: “Ở đó mà ảnh trở qua. Hôm gặp anh Danh, ảnh
năn nỉ tụi tôi đi ăn với ảnh để ảnh có
thì giờ tâm sự. Anh Danh bảo chị lúc nào cũng cấm cản, canh giữ ảnh như canh
tù. Suốt mấy mươi năm qua ảnh gắng chịu đựng để con cái yên tâm học hành. Bây
giờ con cái lớn hết rồi mà chị cũng còn hành hạ ảnh như ngày xưa cho nên ảnh chịu
không nổi. Ảnh bứt!...” Dường như Thúy còn muốn nói tiếp nhưng Phượng-Quỳnh
hốt hoảng như muốn chạy trốn: “Dạ, nếu
anh Danh chỉ nói bây nhiêu đó thôi thì tội của tôi cũng còn nhẹ. Xin lỗi chị,
tôi phải đi có việc.” Bước vài bước, Phượng-Quỳnh quay lui, thấy Thúy nhìn
theo nàng. Trong ánh nhìn của Thúy, Phượng-Quỳnh có thể đọc được rằng: Người gì
thiếu lịch sự. Người ta đang “đem tin tức” cho mà không thèm nghe. Người như vậy
chồng bỏ cũng đáng!
Sự việc xảy ra như vậy nhưng Phượng-Quỳnh không biết phải
nói với Lân như thế nào, đành đáp:
- Thưa Thầy, chuyện của anh Danh như chuyện-dài-nhân-dân-tự-vệ
ngày xưa, nói hoài không hết. Thôi, Thầy đàn tiếp cho em nghe, được không, thưa
Thầy?
Lân linh cảm được điều gì đó, rất mơ hồ, giữa Phượng-Quỳnh
và Danh, nhưng Lân không thể đoán được. Nghe Phượng-Quỳnh yêu cầu, Lân sửa lại
dáng ngồi:
- Phượng-Quỳnh thích nghe nhạc gì?
- Thầy biết rồi. Em chỉ thích nhạc tình cảm thôi.
Lân cười, dạo một đoạn ngắn rồi vừa đàn vừa hát: “Wise men say, only fools rush in. But I
can’t help falling in love with you.” (4) Nhận ra đây là bản nhạc mà ngày xưa, mỗi khi đến nhà quý
Thầy dự tiệc, Lân thường mở dĩa nhạc cho khách nghe, Phượng-Quỳnh xúc động dạt dào.
Tiếng đàn và giọng hát của Lân đưa tâm hồn Phượng-Quỳnh lìa
khỏi thực tại đảo điên để trở về khung trời cũ; nơi có ngôi trường Võ-Tánh thân
yêu; và cũng là nơi Phượng-Quỳnh lớn lên trong ngôi nhà có giàn hoa giấy nở rộ,
màu đỏ thẫm.
Dưới giàn hoa giấy đó, vào những đêm có phần ca nhạc của ban
Tiếng Tơ Đồng, ông Ngữ thường nằm trên võng, ôm radio, nghe một mình. Cũng dưới giàn hoa giấy đó, không biết bao
nhiêu lần Phượng-Quỳnh thấy Ngoại nằm trên võng, em của Phượng-Quỳnh được nằm
nghiêng mặt trên ngực của Ngoại để nghe Ngoại hát ru “...Ầu ơ...Chim quyên ăn trái khổ qua...hò ơi... nuốt vô, nuốt vô...
(thì) sợ đắng...hò...hò ơi...(mà) nhả ra...(thì) bạn cười!...Hò.. ơi...Gió đưa,
gió đưa cây cải về trời... Hò ơi, Rau răm ở lại...hò ơi...(rau răm ở lại)....
chịu lời đắng cay!...” Nhớ đến những câu ca dao này Phượng-Quỳnh mới cay đắng
nhận ra rằng nàng như con chim quyên khờ dại! Và Danh đã thành công khi “hóa kiếp”
cho Phượng-Quỳnh thành loại rau răm, chỉ cam phận lủi mình vào bùn đất chứ
không thể nào đơm những nụ hoa tươi thắm như
ngò, cải, tần ô!
Phượng-Quỳnh thở dài, bâng quơ nhìn giàn hoa giấy của nhà
bên cạnh. Trong giây phút xúc động, Phượng-Quỳnh tưởng như nàng có thể thấy được khuôn mặt của một thanh niên chờn vờn
trên những cành hoa giấy đầy gai.
Trong khi Phượng-Quỳnh không hiểu nàng bị lẫn lộn giữa hiện
thực và quá khứ hay là nàng bị lẫn lộn giữa hình dáng của Lân ngày xưa và chân
dung của Franz Liszt – trong hình vẽ của Istvan Oroszm – thì Lân đắm hồn vào
dòng nhạc và lời ca. Lân muốn mượn lời ca gửi đến “ai đó” lời tự tình mà Lân đã
âm thầm ấp ủ suốt mấy mươi năm dài: “...Take
my hand, take my whole life too…” (5)
Theo tiếng hát ngọt ngào của Lân, Phượng-Quỳnh cảm nhận được
niềm ước mơ vừa chớm dậy trong lòng. Phượng-Quỳnh hát nho nhỏ theo Lân: “For I can’t help falling in love with you…”
(6)
ĐIỆP-MỸ-LINH
http://www.diepmylinh.com/
1.-Longer của Dan
Fogelberg.
2.-Ngày Nào Một
Giấc Mơ của Ngọc-Bích.
3, 4, 5 và 6.-Can’t Help Falling In Love của George Weiss,
Elvis Presley trình bày.