Tình cờ tôi nghe giai điệu trẻ trung trong bài hát “Xích lô”
của nhạc sĩ Võ Thiện Thanh: “Xích lô ai không hay ước mơ / cứ vui đùa nhé cứ mơ
lặng lẽ cứ lom khom đi về… La la lá la…” Lời bài hát làm tôi nhớ đến một bài
báo của ký giả Charles Sidilaire đăng trên tạp chí Đông Dương số tháng 4/1952 về
nghề phu xích lô từ xa xưa. Tác giả ghi nhận rằng, dường như người phu xích lô
không có một ước mơ lớn trong cuộc đời, chỉ mong kiếm sống hằng ngày với đôi
chân gồng cơ bắp trên đường phố Sài Gòn-Chợ Lớn.
Xích lô trên đường phố Sài Gòn năm 1961 – Nguồn: LIFE.
Ðối với nhiều người trong đó có tôi, xích lô là phương tiện di chuyển quen thuộc.
Vào những năm sáu mươi, nhiều tỉnh thành đã xuất hiện loại xe thô sơ này nhưng
Sài Gòn vẫn là nơi để lại nhiều ấn tượng. Bởi Sài Gòn-Chợ Lớn trở thành nơi đầu
tiên du nhập phương tiện xích lô thay cho hình ảnh người phu kéo xe lam lũ trước
đó nhiều chục năm bằng một hình thức ít nhọc nhằn hơn. Theo bài báo “A look at
the Pedi-Cab (Cyclo-Pousse) – King of Saigon streets”, Charles Sidilaire cho biết,
Cyclo hay đơn giản là “Clo” là tiếng gọi phu xe quen thuộc của người Sài Gòn
thuở xưa cách nay gần tám mươi năm.
Xích lô đầu năm 1940 có hình dáng thấp và đường nét khác xe xích lô sau này
-Nguồn: Southeast Asian Indochina.
Ðó là thời chiến tranh Ðông Dương, sau khi Nhật rút quân về nước và quân đội
Anh nhảy vào giúp người Pháp trở lại Việt Nam, cho đến năm 1952 thì dân số Sài
Gòn-Chợ Lớn tăng vọt do tác động cuộc di dân từ nông thôn lên thành thị, lên đến
một triệu bảy trăm ngàn người. Chính giai đoạn này là thời kỳ vàng son của nghề
phu xe xích lô đạp. Và tiếp đến xích lô máy cũng bắt đầu xuất hiện khi dân số
đô thành tiếp tục trên đà gia tăng trong cuộc di cư sau năm 1954 của hàng trăm
ngàn người từ Bắc vào Nam.
Nhưng hãy từ từ chuyện xích lô máy để tôi tiếp tục chuyện xích lô đạp theo dòng
sự kiện, mặc dầu xích lô gắn máy xuất hiện chỉ sau khi xích lô đạp chạy đầy Sài
Gòn-Chợ Lớn chừng mười năm, tức là đầu thập niên bốn mươi. Thời gian trước đó,
người Hà Thành và Sài Thành vẫn sử dụng xe kéo tay, khiến hai nhà văn Nguyễn
Công Hoan viết cuốn “Ngựa người người ngựa” và Tam Lang Vũ Ðình Chí viết thiên
phóng sự “Tôi kéo xe” để nói lên sự cùng cực của dân đen kiếm sống dưới thời
thuộc địa.
Xích lô máy đầu thập niên 50 có vè hai bên nhỏ – Nguồn: Southeast Asian
Indochina.
Xích lô đạp thay thế xe kéo, thịnh hành và phát triển mạnh nhất ở Sài Gòn. Ðầu
thập niên năm mươi, đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn có chừng 6,500 chiếc xích lô. Thời
đó, phu xích lô phải có giấy phép lái xe do Sở cảnh sát cấp mới được phép hoạt
động. Nhưng thực tế không phải ai cũng đi xin giấy phép trong khi số phu xe
xích lô lên đến gần mười hai ngàn người. Một số người phải thuê xe xích lô đạp
kiếm sống vì nghề này cực nhọc nhưng mỗi ngày trừ chi phí thuê xe chừng 20 đồng
Ðông Dương ra thì có thể kiếm 30 – 40 đồng để nuôi sống được gia đình. Do đó, ở
Sài Gòn-Chợ Lớn xuất hiện nhiều nhà giàu đầu tư cho phu thuê xe hai ca sáng chiều.
Tuy vậy, theo ký giả Charles Sidilaire thì hầu hết giới phu xe vẫn nghèo và là
giai cấp thấp trong xã hội. Không ít phu xe kiếm được đồng nào thì đem đi cờ bạc
tại Ðại Thế Giới và sòng bạc Kim Chung để tìm vận may đổi đời.
Nhà cho thuê xe phải là người khá giả, giàu có. Có nhà đầu tư vài chiếc, hay
quy mô hơn vài chục chiếc, vài trăm chiếc, kiếm vài trăm đến vài ngàn đồng bạc
Ðông Dương bỏ túi mỗi ngày là chuyện dễ dàng. Vào thời Bảy Viễn làm thủ lĩnh
Bình Xuyên kiêm Tổng trấn Sài Gòn-Chợ Lớn, ngoài việc thầu sòng bạc Ðại Thế Giới,
ông còn làm chủ chừng 30 chiếc xích lô cho thuê. Ðến năm 1955, ông bị Thủ tướng
Ngô Ðình Diệm dẹp tan vì chống đối chính phủ và sau đó lưu vong sang Pháp.
Hình ảnh xe Triporteur hiệu Peugeot năm 1950 tại Pháp trước khi chế tác lại
làm xe xích lô máy Nguồn: hinhanhvietnam.com.
Việc ký giả Charles Sidilaire nhắc đến ông trùm sòng bạc Bảy Viễn, là một nhà đầu
tư cho thuê xe xích lô với số đầu xe ít ỏi cũng chỉ để thấy làm nghề cho thuê
xe là công việc tay trái kiếm tiền một cách dễ dàng của người Sài Gòn giàu có.
Mặt khác đó là cách viết đẩy đưa dẫn dắt trước đó gần mười năm, một nhà đầu tư
công nghiệp người Pháp tên Pierre Coupeaus, người đầu tiên thành lập hãng
Pedi-Cab ở Phnom-Penh vào cuối thập niên 30 và khoảng cuối thập niên 40, ông
thành lập hãng Pedi-Cab ở số 6 đường Marne Wharf (Bến Vân Ðồn ngày nay). Chính
tại đây, làm ra những chiếc xe xích lô đạp với phụ tùng sên líp nhập từ Pháp quốc;
và đầu thập niên 50, nơi đây cũng là đầu mối nhập cảng cả ngàn chiếc xích lô
máy cùng với xe taxi Renault chạy khắp Sài Gòn-Chợ Lớn. Theo bài báo, thời điểm
1952, Sài Gòn có đến 1,800 chiếc xích lô máy. Một cạnh tranh thương trường
trong ngành giao thông bùng phát vì chiếc xe không còn dùng sức cơ bắp đôi
chân, lại chạy nhanh, giá cả bình dân so với xe taxi chỉ dành cho giới thượng
lưu đương thời.
Nói về chuyện cạnh tranh giữa xích lô đạp và xích lô máy, thằng bạn thân của
tôi rất rành. Ba của hắn chạy xích lô máy vào thuở chúng tôi còn chưa ra đời.
Vào những năm cuối thập niên 50, giá một chiếc xe xích lô máy khoảng tám cây
vàng. Một số tiền không nhỏ nhưng một cuốc xe xích lô máy từ Sài Gòn vô Chợ Lớn
chỉ mắc gấp đôi xích lô đạp. Vừa nhanh, chở nhiều khách, có khi cả gia đình bốn
năm người chất lên xích lô máy đi Lăng Ông Bà Chiểu thì còn gì tiện lợi hơn. Vì
thế, khách đi xích lô máy rất nhiều, có khi khách kêu không kịp ăn uống.
Xích lô máy giữa năm 1955 có vè to bản hơn chạy trên đường Trần Hưng Đạo có
xe điện Sài Gòn-Chợ Lớn – Nguồn: Southeast Asian Indochina.
Bạn kể, nghe đâu xích lô máy của Ba bạn là loại xe được chế tác lại từ kiểu xe
nguyên thủy mới nhất của xe Triporteur Peugeot hai thì chạy bằng xăng pha nhớt,
sản xuất tại Pháp. Loại xe này nguyên là xe chở hàng hóa nông sản từ các vùng
nông thôn đến các chợ hoặc siêu thị bên Pháp. Hình dáng của nó gần giống xe ba
gác máy chở hàng. Dàn phía sau là của xe Triporteur, còn dàn phía trước rập
khuôn xích lô đạp nên gọi là xích lô máy. Công việc chạy xích lô máy khấm khá,
cho đến khi ông gom góp đủ tiền mua chiếc taxi chở khách nước ngoài ở khu vực gần
phi trường Tân Sơn Nhất vào giữa thập niên sáu mươi. Và chính trong thời gian
này, xe Lam (Lambro) du nhập vào Sài Gòn, một cuộc cạnh tranh khác mà chủ yếu với
loại xe xích lô máy. Xe Lam chở nhiều khách, rẻ tiền và nhiều hàng hóa trên mui
khiến cho nghề xích lô máy dần sa sút và biến mất sau năm 1975 do khan hiếm xăng
dầu.
Tôi nhớ vào năm 1979, sau khi hồi phục từ ca mổ ruột thừa tại bệnh viện Nguyễn
Trải, tôi đã đón xích lô máy về nhà. Xích lô máy lúc ấy không còn nhiều như thời
trước và mãi cho đến năm 1985 mới có lệnh cấm xích lô máy hoạt động, khiến một
số chủ bán xe, số khác chế tạo lại thành xe ba gác máy chở hàng ở các chợ đầu mối
vùng ngoại thành rồi tuyệt tích “giang hồ” từ đó.
Phương tiện vận chuyển xe lam xuất hiện giữa thập niên 1960 làm cuộc cạnh
tranh xe xích lô máy tàn lụi – Nguồn: hinhảnhvietnam.com.
Thế nhưng, tôi vẫn nghe nhiều người nhớ tiếc xích lô máy hơn xích lô đạp, và
xích lô đạp đang biến mất dần với những lệnh cấm hoạt động trên nhiều tuyến đường
trong nội thành. Nghe nói, hiện nay còn chưa tới ba trăm chiếc xích lô, mà đa
phần phu xe là người từ các vùng quê khác vào Sài Gòn mưu sinh, đạp xe ở các
khu vực ngoại thành.
Trang Nguyên
June 10, 2016