01 September 2016

“LÊNH ĐÊNH”, TRUYỆN KỂ CỦA MỘT THẾ HỆ - T.Vấn

Trong lời tựa của tác phẩm “Bếp Lửa” (1965), nhà văn Thanh Tâm Tuyền viết ở dòng cuối cùng:
Mỗi nhà văn chính là một kẻ sống sót.
Sống sót để làm gì? Chắc chẳng phải để sống nốt cuộc đời riêng của mình. Nếu chỉ có thế, hẳn chúng ta sẽ không có một Bếp Lửa kinh điển vẫn còn được đọc lại sau hơn 50 năm. Kẻ sống sót năm ấy đã trở thành một nhà văn. Hơn nữa, một nhà văn tiêu biểu của thế hệ mình.

Mỗi một thế hệ Việt Nam đều có người sống sót để kể lại câu chuyện mà mình và những kẻ cùng thời đã kinh qua. Sẽ không quá cường điệu khi nói rằng Lưu Na là người của thế hệ một rưỡi sống sót để kể lại cho chúng ta nghe về nỗi đoạn trường mà thế hệ của cô đã bị buộc phải sống và chết với nó. Và tôi cũng không thể chối bỏ rằng nỗi đoạn trường ấy có nguồn gốc từ sự thất bại của thế hệ chúng tôi, một thứ gia tài của mẹ rách nát, khốn cùng để lại cho kẻ đến sau.

Mang tâm trạng ấy, tôi đã đọc “Lênh Đênh” của Lưu Na.

Đó là câu chuyện của những thanh niên thiếu nữ miền Nam đang còn ở những năm cuối bậc trung học thì biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xẩy ra. Nhìn những người phía bên thắng trận hùng hổ bước vào từng ngõ ngách đời sống thường ngày của mình: trường học, sinh hoạt tập thể, quan hệ bạn bè thầy trò, quan hệ gia đình v.v…, họ hoang mang, lo lắng, sợ hãi, bất mãn, rồi buông xuôi, hoặc “nín thở qua sông”, hoặc gió chiều nào che chiều nấy, hoặc công khai đương đầu, hoặc cùng với trào lưu người dân miền Nam lúc ấy, tìm cách vượt biên, vượt biển, băng rừng ra khỏi mảnh đất quê hương, vì những kẻ bên thắng trận đã biến nó thành một nhà tù khổng lồ giam hãm những đồng bào kém may mắn của mình.

Nhân vật chính của “Lênh Đênh” là một cô gái trong số hàng chục, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ nhắc đến ở trên. Để cứu vãn tuổi trẻ của mình, cô chọn con đường vượt biên. Vì, theo cô: “Vượt biên là xuyên tâm liên chữa bá bịnh từ thể xác tới tâm hồn, là mảnh bằng cao nhất của đại học, là trang sức quí giá của xã hội bây giờ. . .
Nói chọn cũng chỉ là một cách nói, vì cô nhờ là “bồ” của một thanh niên có gia đình tổ chức vượt biên nên cô được họ bằng lòng cho đi theo. Vả, số phận hay chọn lựa, trong trường hợp của cô gái trẻ, đều không sai. Giống như hàng vạn những mảnh đời tuổi trẻ khác trên một nửa đất nước những ngày ấy, những ngày mà cả đất nước ai cũng biết đến sự “nhiệm màu” của “thần dược Xuyên Tâm Liên”.
Cô gái trẻ may mắn được đặt chân lên đảo tị nạn mà không bị hề hấn gì. Nhưng cô cũng đã có cơ hội được chứng kiến những dư chấn buốt lòng ở những cô gái bị hải tặc hãm hiếp trên con đường vượt biển. Sự may mắn của cô đã biến cô thành một kẻ có tội với những người đồng lứa kém may mắn của mình. Đó là cảm giác kinh khủng quá sức chịu đựng của một cô gái trẻ vừa qua tuổi trăng tròn, cộng thêm thời gian ở đảo tị nạn đủ dài và cuộc sống trên đảo đủ sâu để cô biết cay đắng triết lý “…mỗi sự sống đều bao gồm tai ương khổ đau hạnh phúc lúc biến lúc hiện, mà thuyền nhân là mặt hiển lộ của cái mình quen gọi là bất hạnh…” và sự khẳng định buồn bã “…Đảo tị nạn không chỉ xóa lối về mà tẩy trắng luôn những tờ hồn trắng, để lại những vết gôm nham nhở xám buồn…
Khoảng thời gian đầu của làn sóng vượt biên, dù chờ đợi ‘thanh lọc” lâu hay mau, thì sớm muộn gì thuyền nhân cũng được đưa đi định cư ở một nước thứ ba. Thế nên, cô gái trẻ của “Lênh Đênh” cũng đã “đến Mỹ một ngày tháng Hai xám buồn
Đất lạ quê người. Thêm những người mà cô chung chạ suốt từ thời gian ở đảo cũng như khi đến Mỹ chẳng phải là người thân ruột thịt, và cái gọi là “mối tình” giữa cô và anh thanh niên thuộc về gia đình ấy ngày cứ một phai nhạt đi, nên cảm giác bơ vơ là điều cô gái trẻ không thể tránh khỏi. Dù chính cô đã “chọn lựa” đặt chân xuống thuyền ra đi nhưng không khỏi có lúc cảm giác bơ vơ đã đẩy cô đi xa hơn nữa để biến thành cảm giác “bị bỏ rơi”. Nếu cảm giác “bị bỏ rơi” là hiện thực, thì không phải chỉ mình cô bị bỏ rơi, mà là tất cả những người thuộc thế hệ cô bị bỏ rơi. Cũng dễ hiểu. Thế hệ đàn anh của cô lúc ấy đều đã “tự mình đem thân vào rọ”, mãi nhiều năm sau mới thoát ra, đặt chân được đến xứ người bên cạnh cô thì họ cũng “bơ vơ” không kém. Nhưng đến lúc này thì cô đâu có còn cần đến họ, hay bất cứ ai khác nữa. Cô đã tự mình bươn chải, học sống với người lạ, học ngôn ngữ lạ, làm quen với văn hóa lạ, bên cạnh một tâm trạng vẫn còn lưu luyến mảnh đời cũ quê nhà, có “Má, với chái bếp hè đường…“, và những kỷ niệm khó quên của một thời tuổi trẻ với bạn bè, với chính những bài hát “cách mạng” đã “như những vết mực lem hay những vết chàm trên thân thể tâm trí không dễ nhận ra để kịp thời xóa bỏ…” Dầu vậy, cô gái trẻ, cũng như bao người tị nạn khác, già trẻ lớn bé, có quá khứ hay không có quá khứ, một mình hay hai mình, hay nhiều mình, đều phải tìm cách loay hoay sống cho hết cuộc đời mình, dù có lúc cô thú nhận “cuộc sống rất tầm thường mà thật khôn kham.
Cuối cùng, cuộc sống của cô gái trong “Lênh Đênh”, của những người trẻ thế hệ cô cũng đã ổn định trên xứ người. Phần lớn họ đều đã cố gắng học hành để có được mảnh bằng kiếm sống như những người trẻ bản xứ. Thế nhưng, suy tư của họ không đơn giản như cách họ sống, như những thế hệ lớn hơn thường nghĩ về họ. Giờ đây, cô gái trẻ năm xưa đã hoàn toàn trưởng thành, đã có đủ những gì mình mong muốn, và đến lúc sự ổn định ấy quay lại hành hạ cô. “…Ngà đã chấp nhận mình không còn bao giờ có thể gặp lại gia đình, không còn có thể là một người con dân của đất nước. Ngà biết mình chỉ còn một con đường là sống và chết ở nơi này _ đó không còn là chuyện núi lở sông tan gì. Chấp nhận, nhưng có nỗi ngao ngán âm thầm khi Ngà nghĩ đến những gì sẽ đạt được: một mảnh bằng một công việc tốt một mái nhà một hôn nhân đùm đề con cái, và một vuông đất cuối đời. Nếu xem những thành đạt có thể có đó là ý nghĩa chung quyết của cuộc sống, Ngà buồn rầu nghĩ rằng đó thực ra là điều sỉ nhục cho cố gắng của mình, của muôn người đã dùng hết sức mình vượt cơn hồng thủy nơi quê nhà, nơi biển dữ…
Ngà, cô gái trẻ của “Lênh Đênh”, là khuôn mặt điển hình một thế hệ bị đàn anh “bỏ rơi” khi họ chưa đủ sức để có thể đảm đương được cuộc đời mình, nói gì đến sứ mạng mà thời đại sẽ giao phó cho họ. Mặc dù sự “bỏ rơi” ấy xẩy ra chẳng qua là do vận nước nổi trôi, nhưng trước lịch sử, thế hệ đàn anh của cô gái vẫn không thể rũ bỏ được trách nhiệm của mình.
Giọng kể của Lưu Na trong “Lênh Đênh” chậm rãi, từ tốn (so với số tuổi của cô), nhưng vẫn có những đoạn bứt phá, như thể cảm xúc bị dồn nén phải tìm cách thoát ra khỏi cái khuôn bình tĩnh giả tạo. Những lúc ấy, người đọc mới cảm được nỗi buồn âm ỉ trong giọng người kể truyện. Một thứ hiệu ứng tâm lý được tính toán qua kỹ thuật kể truyện theo lối văn chương Mỹ hiện nay chăng? Thú thật, tôi không dám quả quyết. Chỉ ngạc nhiên một điều, tác giả rời khỏi cái nôi tiếng Việt từ khi mới 17, 18 tuổi, vốn liếng ngôn ngữ mẹ đẻ mang theo có thể chỉ từ những trang báo Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc hoặc vài quyển sách dành cho tuổi dậy thì; hoặc cao hơn nữa thì cũng chỉ vài quyển sách thời thượng trước 75. Vậy mà ngôn ngữ trong “Lênh Đênh” mang một vóc dáng khá chững chạc, có chiều sâu khá lôi cuốn, và đáng kể nhất là độ nhuần nhuyễn trong cấu tạo câu chữ đúng cung bậc, đúng liều lượng, không quá đà, cũng không hụt hơi, cho thấy độ chín tới của một ngòi bút tuy “mới” mà không có chút gì gọi là “non nớt”. Có lẽ là nhờ những năm tháng “mê sách báo” sau khi cuộc sống nơi xứ người tạm ổn định, vớ được quyển sách tiếng Việt nào cũng ngấu nghiến như kẻ chết đói mà tác giả đã từng tâm sự trong những bài viết rải rác đây đó chăng?
Dẫu sao, như Thanh Tâm Tuyền với “Bếp Lửa”, như Cao Xuân Huy với “Tháng ba gẫy súng”, với “Lênh Đênh”, Lưu Na đã làm tròn vai trò kẻ sống sót của thế hệ mình**. Người đương thời, hay người đời sau, khi mở những trang sách của “Lênh Đênh”, là mở những trang đời đầy bất trắc của một thế hệ vừa chớm bám rễ trên mảnh đất quê nhà thì cơn bão thời cuộc đã thổi họ bay đi rất xa, xa đến độ không có nẻo quay về(?).

T.Vấn
(*) Những đoạn in nghiêng, trong ngoặc kép, được trích từ “Lênh Đênh” của Lưu Na.
(**) Ở đây, người viết không hề có ý định so sánh các tác giả hay tác phẩm trên phương diện văn chương. Trước, trong và sau cuộc chiến Quốc Cộng, những trang sử của đất nước đã ghi dấu ấn rất đậm lên mỗi thế hệ tiêu biểu cho mỗi giai đoạn nhiễu nhương mà họ đã sống. Thế nên, việc nhắc đến các tác giả, các tác phẩm trong bài tựa này chỉ nhằm vào khía cạnh lịch sử của nội dung các tác phẩm và thời điểm sống của các tác giả, qua cái nhìn chủ quan của người viết. (T.Vấn)