Đi trên đường John, cứ ngỡ Sài Gòn một dạo;
Ngồi Cà phê 86, cứ ngỡ tưởng Brodard.
*Nguyễn Ngọc Thành
1.
Tôi đến Sydney vào cuối tháng 11. Nghe vậy, một người bạn vui vẻ nhắn trên
facebook “OK, ở đây đang cuối xuân đầu hạ. Còn vài cơn mưa nhưng nói chung là
ấm áp, mát mẻ…”. Lần đầu tiên đặt chân đến nước Úc, rồi ở được vài ngày, tôi
lại thấy cái ‘nói chung’ trong message của anh bạn có hơi khác trời thực đất
thực một chút. Trước hết, thời tiết ở đất Úc – ghi nhận cụ thể là thành phố
Sydney, nơi tôi sống gần 3 tháng – phải nói là lạ lùng. Giữa mùa hạ, giữa những
chuỗi 3 – 4 ngày thật nóng đột ngột có một ngày lạnh, bất kể hôm đó không mưa
hay có mưa. Hoặc sáng ra, mới sớm mai chỉ thấy nắng, nóng nhưng đến trựa lại
đổi qua lạnh, lạnh luôn đến chiều tối. Có ngày, đã biết trước là 37-38 độ C
nhưng sáng sớm, mở cửa bước ra đường thì phải có áo ấm, khăn choàng cổ vì lạnh
đến 16 -17 độ C.
Do thời tiết kiểu Nắng Sydney, anh đi mà chợt… lạnh – xin lỗi dám nhái thơ
Nguyên Sa – nên chỉ ở Úc đôi ba ngày thôi là tôi đã rành ngay việc theo dõi bản
tin thời tiết trên tivi địa phương. Khi đã nắm được thông tin dự báo nắng mưa,
nóng lạnh, tôi có thể dạn miệng, thoải mái cùng mọi người trong nhà bàn tính
cho ngày mai, ngày kia, tuần tới… sẽ đi đâu, là đi chơi xa hay chỉ là đi shop
gần nhà, sao cho thuận với “thiên thời”, cũng như chuẩn bị cho chu đáo mọi thứ,
từ nón rộng vành, áo lạnh, giày vớ cho đến dù ô, áo mưa, khăn choàng cổ …
Căn nhà tôi ngụ nằm trên một ngọn đồi nhỏ, có vẻ như là điểm cao nhất khu vực
Cabramatta West, thuộc Fairfield City, phân khu hành chánh phía Tây của thủ phủ
Sydney. Điều thú vị là ngày mùa hạ ở Úc rất dài, khoảng 6 giờ đã sáng bửng và
đến 8 giờ đêm mới tắt hẳn ánh mặt trời.
Ngày dài/đêm ngắn vào mùa hạ tại Úc phải nói là quá hớp nếu đem so “Tháng 5,
chưa nằm đã sáng” – hiện tượng ngày dài/đêm ngắn vào mùa mưa ở Việt Nam như một
câu tục ngữ mô tả. Nếu so sánh trong cùng một chặng tháng 10, tháng 11 trong
năm, ở Việt Nam có “Tháng 10 chưa cười đã sáng”, tức hiện tượng ngày ngắn/đêm
dài vào mùa khô của ta, thì tháng 11 tại Úc có lẽ là “Cười mỏi miệng chưa thấy
tối”, ngược ngạo hoàn toàn!
Mùa hạ, ngày rất dài, dường như để tăng thêm thời gian mỗi ngày cho người ta
hưởng thụ cuộc sống nhiều hơn. Ở trung tâm Cabramatta, sáng ra thông thường 9
giờ các tiệm ăn, điểm tâm, cà phê – nói chung là sinh hoạt đường phố – mới mở
cửa. Người ta ăn sáng hoành tráng, bữa trưa ăn nhẹ hoặc bỏ luôn, cũng không ngủ
trưa như người Việt trong nước. Chiều đến, người ta thường dùng bữa tối sớm.
Đặc biệt vào những chiều tối ngày thứ sáu, tức mai nghỉ week end, nhiều gia
đình đưa nhau đi ăn ngoài nên các nhà hàng, quán tiệm đông nghẹt khách và kiếm
chỗ đậu xe rất gian nan.
Cứ sáng sáng, giấc 6 giờ là tôi cùng anh sui – nhà thơ Nguyễn Ngọc Thành, lặng
lẽ mở cổng đi ra đường trong khi cả nhà còn ngủ. Không rõ về những khu vực khác
của quận Fairfield ra sao, riêng ở vùng ngoại ô này thì khách đi hướng nào cũng
gặp công viên. Công viên cái lớn cái nhỏ đủ cỡ, nối tiếp nhau liên tục. Khách
ra khỏi một công viên ở phần đường bên này, vừa sang đường bên kia đã thấy lấp
ló cái khung cổng dẫn vào một công viên khác. Cùng là công viên nhưng cái có
tên, cái không tên, cái từ xa đã thấy chan hòa màu sắc xanh, đỏ rực rỡ vì được
đặt thêm những xích đu, cầu tuột cho con nít chơi; ngược lại là vài cái khá hiu
quạnh như bị bỏ bê, cây lá rậm rạp um tùm, chắc lâu lắm rồi chẳng ai cắt tỉa và
đến một dãy bờ rào cho phân biệt cũng chẳng ai dựng cho. Rồi có loại công viên
lớn bao la nhưng thực chất là một sân đá banh cùng nhiều bãi đánh bi sắt và chỉ
có một lối đi bao quanh sân banh là dành cho người đi bộ. Hay ở công viên
Cabra-Vale Memorial Park với đài tưởng niệm tử sĩ uy nghiêm, đường bệ – nằm ở
góc đường xe lửa PDE với Bartley St., thì ở đây dù cũng có đầy đủ bồn bông,
thảm cỏ, lối đi bộ, băng đá…, nhưng khu tưởng niệm mới là chủ đề, lý do chính
để chính quyền Fairfield xây dựng công viên này từ năm 1919.
Tôi kể lể dài dòng về mảng công viên trong một khu phố không lớn lắm như trên
có lẽ do cảm giác rất dễ chịu, êm ả mỗi lúc bước ra đường thả bộ. Phần vỉa hè
của con đường nào cũng vậy, thường rộng rãi và luôn có lối đi đổ bê-tông cỡ 1
mét ngang dành cho người đi bộ, cũng như tràn ngập những vạt cỏ và hoa dại viền
hai bên lối đi và ô đất trồng cây lấy bóng mát. Nhà dân Úc vùng ngoại ô hầu hết
làm theo theo kiểu một trệt, một lầu và gỗ được sử dụng nhiều. Nhờ vậy, trước
mắt khách đi đường, không gian sống thong dong dàn trải theo chiều ngang, mềm
mại theo màu xanh cây lá và chất liệu gỗ, chứ không như khung cảnh đường phố
bên mình thường hiếm hoi màu xanh cây lá, cứng nhắt và bó rọ với toàn vách
tường, cột xi măng và hễ có cơ hội thì chỉ phát triển theo chiều cao, được
nhiều tầng càng tốt do đã bị khóa cứng chiều ngang như kiểu nhà liên kế, phố
nhà ống.
Nhắc đến nhà kiểu nhà ống chung vách, san sát nhau ở Sài Gòn mới nhớ là ở xứ
Chuột Túi, nhà nào cũng có sân trước, sân bên khá rộng, nghĩa là từ trong nhà,
bốn phía nhìn ra cửa đều thấy các mảng xanh của bầu trời, của cây lá vây quanh
nhà. Do mặt bằng thong thả, hầu hết chủ nhà chỉ cất nhà một phần của lô đất,
còn lại là sân cỏ có cây xanh, bóng mát hay để thực sự là những mảnh vườn nho
nhỏ để gia chủ trồng hoa, trồng rau cải, cây ăn trái theo ý thích riêng. Vườn
nhà mình tiếp giáp vườn hàng xóm, cây xanh tiếp nối cây xanh. Và như đã nói, từ
nhà bước ra đường là công viên – lai rai công viên tiếp nối nhau, để thế giới
xanh lại chan hòa ở khắp các hướng đi, tạo nên một cảnh quan thoáng đãng kéo
dài đến chân trời xa xa… Cũng thật êm ả, khỏe đầu óc khi xe cộ ở đây, dù là
phương tiện di chuyển của 99.9% cư dân, từ ông giám đốc cho tới bà nội trợ,
nhưng vào sáng sớm thì khá thưa thớt. Phải nói thêm rằng đúng là “xứ văn minh”
khi người lái xe ở Úc không có thói bóp còi inh ỏi vô lối như ở xứ mình. Đa số
các xe, lại khác Sài Gòn là thường phóng nhanh tới 60-70 km/giờ nhưng tài xế
luôn luôn giữ luật rất nghiêm túc, chặt chẽ, cũng như đường xá rất tốt nên tai
nạn rất ít xảy ra.
2.
Tôi cho rằng, ở đất nước này, một khi đã được miễn trừ tiếng ồn tàn khốc của xe
cộ rồi thì âm thanh rộn ràng nhất có thể nghe được ngoài đường phố chính là
tiếng chim chóc. Chim chóc trên đường phố có nhiều giống loài, phổ biến là quạ,
sáo, kéc, cu đất, bồ cầu rừng…, ít hơn là chim sâu, cò quắm, cò trắng, chích
chòe, vịt nước, le le và vài chú mỏ dài hay lặn hụp ở các mương xả nước mưa.
Chim tụ tập nhiều nhất là trong các công viên toàn cây xanh, thảm cỏ. Lạ là bất
cứ ở đâu cũng không thấy bọn se sẻ, giống chim cư-dân-đô-thị quen mặt ở VN.
Chim líu lo, ríu rít hót, kêu với đủ loại chất giọng, âm vực khi bay, nhảy,
kiếm ăn trên bãi cỏ, cành cây. Thường ồn ào, chộn rộn nhất là lủ quạ và kéc.
Kéc thì đủ màu: kéc xanh, kéc trắng, kéc trắng/hồng, kéc ngũ sắc; quạ thì có
quạ đen, quạ khoang. Nhiều con quạ, dù đang mãi miết mổ tìm mồi rất lâu trong
cỏ hay đang đứng im trên dây điện cũng đột nhiên – không rõ vì chuyện gì – vừa
bay đi vừa lớn tiếng kêu quang quác, khiến người đi đường giật cả mình.
Tôi đã thầm mến phục thái độ sống gần gũi với chim chóc của người dân Úc. Hay
ít ra với một mớ luật lệ được họ đặt ra nhằm bảo vệ chim chóc nói riêng và thú
hoang dã nói chung, người Úc chấp nhận cho chim chóc sống kề cận mình, dù ở nơi
đồng quê hay thành phố cũng thế. Trừ trường hợp đặc biệt như có bệnh dại, bệnh
truyền nhiễm phát tác trong thú hoang dã, còn bình thường không ai được phép tấn
công, giết hại chim chóc. Do vậy, chừng như chim chóc rất an tâm, không sợ bị
bắt, bị giết, bị làm thịt nên chúng cứ ung dung lẩn quẩn bên cạnh con người. Và
khi gần gũi với chim, một giống loài hoang dã rất đông đảo trên trái đất, người
dân ở Úc – nhất là thị dân – sống gần với thiên nhiên hơn. Ít ra là gần thiên
nhiên hơn hẳn người Việt trong nước, đa số vốn có tập tục lạnh lùng là thấy chú
chim lơ đãng nào đó xớ rớ đến gần thì lập tức tìm cách chụp, bẫy để cho nó …lên
dĩa.
Tất nhiên, ở đây nói người dân ở Úc “sống gần thiên nhiên” hoàn toàn không có
nghĩa dân xứ Chuột Túi còn man dã, còn ở trình độ phải săn bắt chim, thú hay
hái lượm trái rừng để nuôi miệng. Trái lại, được xếp vào hàng quốc gia phát
triển trên thế giới, nước Úc cứ văn minh tiến bộ, nhưng người Úc cứ chọn một
lối sống gần gũi thiên nhiên, gần gũi chim, thú hoang dã. Thậm chí, có người ở
đây còn đi shop lựa mua thức ăn sản xuất riêng cho các loại chim, đem về cho
vào hộp treo ngoài vườn cho chim sà xuống tranh ăn và xem chim ăn là một thú vui
nhẹ nhàng của họ.
Lúc nào người dân xứ này cũng dễ dàng và thường xuyên nhận ra sự hiện diện của
chim chóc. Chưa thấy mặt thấy mỏ chúng là đã nghe tiếng chúng hót hay kêu, la
tùy lúc. Và trước tiếng chim kêu, hót đâu đó, không thấy ai ở xứ này, cả dân Tây
lẫn dân gốc Việt, tỏ vẻ ngạc nhiên tới mức xem đó là hiện tượng lạ, âm thanh
lạ, đáng để chú ý, tìm hiểu. Ngược lại, chỉ đáng quan tâm là khi chợt có một
bãi cứt chim trắng sệt dính trên mui xe, kiếng xe mà thôi.
Còn vì lý do gì mà ngay tại Sài Gòn, ở vùng ngoại ô hiện vẫn có một số người
sống bằng nghề bẫy chim bằng lồng, lưới, keo dính thần sầu của Trung Quốc?
Trước hết, họ bẫy chim để kiếm tiền khi bán chúng cho những đầu nậu buôn bán
chim phóng sinh. Tiếc rằng, cái nghề tạm coi là cũng kiếm ra chút ít tiền này
không hề được công nhiên ghi trong danh sách ngành, nghề xã hội – đương nhiên
là những nghề lương thiện, cũng như không hề được khuyên khích bởi tàn sát chim
chóc, làm tổn hại đời sống thiên nhiên. Kế đó, cần nói đến những bà con cứ cúc
cung mua chim đem phóng sinh trước cổng chùa, rôi hồn nhiên nghĩ là mình đang
làm phước, giúp chim được tự do. Ước gì bà con hiểu cho rằng mình càng “làm
phước” kiểu trên là càng khuyến khích đám đầu nậu buôn bán chim cùng đám “thợ”
săn, bẫy chim có cớ để bắt nhiều chim hơn nữa, tức làm nhiều chim chóc bị mất
tự do hơn nữa.
3.
Chưa đặt chân vào đất Úc tôi đã cảm thấy thật hạnh phúc khi dư biết qua tới bển
thế nào bạn bè, nhất là giới văn nghệ – báo chí, cũng đưa mình đến các quán cà
phê Việt – không bỏ sót quán nào. Đó là cách bạn bè gặp nhau dễ nhất, gọn nhẹ
nhất, trước khi bàn tới chuyện ăn nhậu hay đưa nhau đi chơi, viếng thăm các
thắng cảnh, đền đài…
Ở Cabramatta/Sydney, phải nói là hiếm hoi mới có vài quán cà phê quý giá – theo
nghĩa có không khí rất Việt, tức như thể được mặc nhận là chỗ riêng của người
Úc gốc Việt cùng du khách Việt Nam nên nghe toàn tiếng Việt. Như Cafe Nhớ ở hẽm
68A đường John và một quán cùng tên, cùng chủ ở đường Bankstown, hay Quán Xưa
và Cafe 86 cũng nằm trên đường John, hoặc Vy Vy Garden Cafe ở Canley Vale Road…
Ở những quán này, không khí cà phê thuốc lá quen thuộc như ở Sài Gòn. Cũng
những quý ông – đa số đã ngoài tuổi trung niên – thường ăn mặc bụi bậm, hầm hố,
ngồi nhâm nhi cà phê, chuyện trò rôm rã cùng bạn bè hay lặng thinh, tư lự một
mình theo tiếng nhạc Nhật Trường, Khánh Ly… Như thế, cung cách khách uống cà
phê ở đây hao hao giống dân ghiền cà phê, ghiền ra quán cà phê ở Sài Gòn.
Chỉ tiếc là về thức uống, một mặt cà phê Úc ngon bởi chắc chắn không bị trộn
bắp nhưng mặt khác vẫn thua cà phê Việt 1% bởi thường rất khó kiếm ra món cà
phê pha phin, nhỏ giọt mà toàn cà phê pha máy, như: espresso (gồm 3 bậc black
khác nhau), late (½ sửa ½ cà phê), cappuccino (cà phê pha sửa tươi và bột
chocolate). Riêng cappuccino là thức uống phổ biến nhất, chiếm 90% cà phê được
bán trong các quán cà phê tại Úc.
Và thật tiếc nữa, trong khi chính một người Úc, nhà văn/nhà báo/blogger/dân du
lịch “bụi” chính hiệu Ben Groundwater, trên chuyên trang du lịch báo The Sydney
Morning Herald đã bình chọn cà phê sữa đá Việt Nam vào hạng 2 trên 10 loại café
ngon nhất thế giới, tại quán xá trên đất Úc lại rất khó kiếm ra món uống rất
thông thường ấy, tức cà phê đúng kiểu quán xá VN gồm một cốc cà phê phin với
sữa đặc-có- đường, nhất định không dùng sữa tươi, cùng một ly đá để sẵn bên
cạnh.
Dù sao, cũng rất vui là sau này, tại một khu shop Việt ở Inala, thành phố
Brisbane, tôi tình cờ thấy một tấm bảng ghi “Cà phê sữa đá đúng kiểu Việt Nam”
nơi một cửa hàng bán đủ thứ đồ giải khát, chủ gốc Việt, bèn mua take away, uống
cũng tạm được.
Trở lại với Sydney, biết tính tôi chỉ uống cà phê phin, nên mới ngày thứ nhì
tôi đến đây, con gái tôi đã đi shop Việt mua cho một một cái phin inox rất đẹp.
Nhưng gia đình con gái tôi và sát bên là anh sui, họ chỉ dùng cà phê hòa tan,
tôi đành khẽ lên tiếng về cà phê rang xay. Chuyện nhỏ, đã ở tại Úc thì muốn
hàng nội địa như Gloria Jeans, The Coffee Club hay hàng ngoại là Trung Nguyên
đều có cả. Và, nói ra thì có vẻ lẩm cẩm, khi được đi thăm bà con, bạn bè ở
Brisbane và Melbourne, tôi đều cắp nách theo cái phin và bịch cà phê Trung
Nguyên 500 gr. đang uống dở. Làm vậy cho chắc ăn, cũng để các chủ nhà không
phải lo liệu gì cho một thói tật riêng của mình.
4.
Có những buổi chiều, như chiều hôm qua, thời tiết không tốt. Bầu trời xám xịt
và mưa lâm râm. Tôi vẫn ráng xỏ giày thể thao, nón vải cùng áo khoác nylon,
nhất định bước ra đường thả bộ, bởi muốn phục hiện một cảm giác dễ chịu – không
thể kiếm ra ở Sài Gòn – khi đi bộ thể dục ở những công viên vào những sáng trời
se lạnh. Và cả cái thú suy tưởng giữa công viên vắng lặng nữa, kể cả vừa giữ
nón vừa suy tưởng giữa những cơn gió thổi mạnh, rào rạt thổi tới thổi lui từng
chập.
Cũng có một vài buổi chiều khác, thời tiết thật dễ chịu, mát mẻ và khô ráo, anh
Thành hay rủ đối ẩm rượu chát ở chỗ sân lộ thiên. Toàn nhãn red wine Úc, khi
thì Wolf Blass khi thì Cabernet Chauvingon, đều có vị vừa uống, không quá chát,
không quá ngọt và màu đỏ thật đẹp. Chỉ có kiểu uống của hai bạn già là bụi đời,
không đẹp mặt đẹp mày cho lắm vì bỏ ra sân đều giản đơn là những thùng nhựa cũ,
loại đựng bình gaz, nay lật úp trên sàn xi măng để làm bàn, ghế cho bữa rượu
tri kỷ. Mồi nhậu cũng đơn giản, có khi là bánh snack tôm, đậu phộng, con mực
khô, có khi là dĩa salad xúc xích, trộn cả lá bồ công anh. Chủ nhà đã giải minh
ngay cho tôi rõ, rằng đây không phải là thứ cây giống như cỏ, có hoa vàng, mọc
hoang ngoài đường như tôi đả từng thấy hoài mà là một loại rau xanh, bảo đảm
sạch vì được trồng chính quy trong các trang trại.
Chúng tôi nhâm nhi thật chậm rãi, nói đủ thứ chuyện trên đời. Đề tài nào cũng
thú vị tuy hay bị ngắt ngang bởi nhảy từ chuyện này sang chuyện khác, hay bởi
những lỗ hổng trong trí nhớ tuổi già. Anh Thành nhắc lại nhiều chuyện cũ, kỷ
niệm xưa như thời còn đi lính lắm hiểm nguy và may rủi trước 30 tháng 4, thời
thiếu đói, ăn độn trong nước, thời mới qua Úc, vất vã đi làm farm…
Có lúc, người bạn già có việc, trở vào nhà hơi lâu. Tôi ngồi một mình, chẳng
phiền hà gì tình trạng cô độc bất chợt này, không có chuyện để nói hay nghe thì
cứ tha hồ nghĩ ngợi – đúng hơn là trở lại với những chuỗi cảm nhận chưa hoàn
tất về đất nước này.
Buổi chiều của những ngày hạ ở đây là thời khắc kết thúc một ngày
bình-thường-như-mọi-ngày ở một đất nước có thành tích tốt nhất thế giới về đời
sống cho người dân, đó là nếp sinh hoạt lành mạnh, tổ chức an sinh xã hội chu
đáo, khoa học, hợp lý, bình đẳng. Hàng hóa, đồ tiêu dùng các cấp hạng đều dư
dã, dễ tìm và điều tuyệt vời là do nền kinh tế phát triển, phúc lợi xã hội
nhiều và dàn đều, nên hầu hết người dân đều có thu nhập, đều có khả năng mua
sắm, tiêu xài. Môi trường sống không bị ô nhiễm ở nhiều mặt, không khí sạch,
nước sạch, ít tiếng ồn… Cũng ở đất này, đỉnh cao của văn minh nhân loại được
thể hiện qua sự thượng tôn con người và nhân vị. Luật lệ và qui đinh trật tự xã
hội của nước Úc chuyên tâm phục vụ sao cho tốt nhất, hiệu quả nhất, cũng như
tạo nhiều đặc quyền, đặc lợi hợp tình, hợp lý cho trẻ em, người già, phụ nữ,
người tàn tật. Cả người đi xe đạp ngoài đường cũng có lối đi dành riêng để khỏi
bị xe ô – tô chèn lấn vô tội vạ.
Trên thế giới nói chung, từ xa xưa vốn có kiểu trọng phụ nữ của đàn ông phương
Tây mà dân mình vẫn gọi là “nịnh đầm kiểu Tây”. Tại đất nước này, tôi mới thấy
quý ông nịnh đầm không chỉ là sơ sịa nhường bước cho quý bà kiểu “Lady first!”
thôi đâu. Ngay bữa mới đặt chân xuống phi trường Sydney, khi cùng các hành
khách khác đẩy xe hành lý băng qua một con đường nội bộ gần cổng ra, tôi đã
chứng kiến một người công nhân Úc, da trắng, đã lớn tuổi, vừa tươi cười chạm
nhẹ ngón tay vào vành chiếc mũ bảo hộ trên đầu để chào một bà khách, vừa mau
mắn bước tới đẩy xe dùm bà này. Và ngoài đường, tình cờ đối mặt nhau trên vỉa
hè đi bộ, chẳng quen chẳng biết mà vẫn thường có những người Úc da trắng nói
“Good morning!” hay “Good day!” với tôi trước hay cùng một lượt.
Chiều nay, tôi ngồi một mình trong sân nhà, cũng giản dị trên một thùng nhựa cũ
lật úp. Xung quanh chỗ tôi ngồi đều vắng lặng. Cả xa xa, sau những đỉnh cây của
nhà hàng xóm, từ phía St. Johns Road cũng chỉ mơ hồ vọng về tiếng xe cộ chạy
ngoài đường. Không gian vắng lặng, tịnh yên tạo cảm giác gần như mọi sự trong
đời sống, ít ra là ở phương trời này, đều an lành, suông sẻ, đâu vào đó – vừa
đủ an lành cho mỗi con người cảm nhận được niềm hạnh phúc, chừng mực thôi của
đời thường.
Phạm Nga
(Sài Gòn, tháng 8/2016)