Long người Nam, từ Sài-Gòn ra trọ học, ở gần nhà và cùng lớp
nên chúng tôi làm bạn với nhau. Lối ăn mặc, cách ăn tiêu có vẻ như con nhà khá
giả. Hắn lỡ phạm một lỗi lầm nào đó, nên ra Huế, với hắn là bản án lưu đày mà
gia đình đã tuyên xử, xuống tay. Thức ăn cay, mưa gió rả rích, phố xá nhỏ chật…,
hắn có thể tìm ra cả vạn lý do để minh định lập trường: Không cảm tình với Huế.
Một bữa, Long ghé nhà, hậm hực. Hình như đương sự có chửi thề.
Tôi đang nằm đọc cuốn Uyên ương gãy cánh và những hình ảnh thơ mộng
trong cuốn sách đã bị tước đoạt trong nháy mắt. Tôi hỏi, để được biết là hắn đi
may một cái quần tây khá đắt tiền nhưng khi mang về thì phát hiện rất nhiều lầm
lỗi. Thất bại! Hắn nói. Đó là chữ hắn thường dùng để chấm câu. Uống một cốc cà
phê hơi nhạt. Thất bại! Mua một quả cam chua. Thất bại! Tất cả đều thất bại. Tựu
thành một việc hằng mong mỏi, chưa bao giờ nghe hắn nói Thành công.
Tôi trấn an, chuyện chi cũng còn có đó, ông may quần ở đâu?
Hắn có chiếc xe gắn máy, Honda 65 phân khối chở từ “trỏng”
ra, gắn bảng số quận 3 Sài-Gòn. Hắn từng dựt le với đám bạn học về cái sự bốc của
chiếc xe và cả đám đều xuýt xoa, y như rằng cái con “hắc mã” đó là độc nhất vô
nhị ở cái xứ hiếm của lạ luôn trầm mặc này. Chạy mau lắm thê, không phải nói trạng
mô nợ. Một vài đứa trong lớp gốc gác ngoại thành phát biểu cảm tưởng. Tôi leo
lên yên sau, ôm bọc giấy gói kín chiếc quần không như ý để hắn bốc tới nơi gây
phiền hà. Tiệm nằm ngoài phố, bảng hiệu có người ra công vẽ sơn hình tháp
Eiffel đồ sộ như thể cầu chứng, mang tay nghề về từ kinh đô ánh sáng.
Tiệm vắng, đứng bên chiếc bàn dài là người đàn ông tóc tém
lui sau, chải mượt bóng dầu mỡ thấy rõ sự chuyên cần mà răng lược đã cày qua.
Áo bỏ vào quần tươm tất, điệu đàng, đỏm dáng. Tiếc một điều chân mang dép cao
su mòn vẹt và ông xứng đáng để đại diện cho những người thiếu thước tấc. Ông
cao ngang vai tôi, cổ ông có sợi thước dây vắt tròng, vật trang sức như ta thường
thấy nơi mấy vị chuyên nghề đo may.
Ông tính nói điều gì đó nhưng thoáng cau mày khi nhìn ra thằng
bạn tôi. Hẳn ông đã đánh hơi ra chuyện bất thường. Hai đứa ni tới để kiện tụng
chớ không phải mua sắm may mặc. Chúng tôi đã lựa thời điểm là sau buổi trưa,
tránh giờ mở hàng “mất may xưa” của chủ tiệm, mình chưa nói năng họ đã càm ràm nghe
cũng ngán.
Rồi cái quần được trải thẳng trên mặt bàn dài. Tôi như đứa
thông ngôn vì có khi mặt bạn tôi nghệch, ú ớ không hiểu lời phân trần. Tui đồng
ý là khúc trữa có hơi bị nhăn nhíu, nhưng khúc đưới và khúc côi ni, anh xem đi,
phải nói là khéo tay. Hàng vải ni rất khó may, anh thông cảm để tui chỉnh sửa lại.
Côi, trữa, đưới. Thất bại, phải không? Tuy thương hiệu có vẽ cái tháp biểu tượng
của Paris, nhưng ổng hổng nói tiếng Tây tiếng u đâu. Đậm đà bản sắc địa phương
đó nợ, chớ mô lai tạp đầu Ngô mình Sở: Chín giờ kèn thổi “cu-sê”, thôi em ở lại
anh về “áp-bên”. Coucher là ngủ ngáy mà appel là điểm danh, nôm na là tục tác gọi
gà về chuồng, trời túi hung rồi.
75 là cú thổi “áp-bên” đầy xao xác khiến giấc “cu-sê” mãi
không tròn giấc, hoặc có người làm cú “cu-sê” dài dằng dặc, dài miên man. Tất cả
ngác ngơ lạc hồn như gà con mất mẹ.
Bữa nọ tôi ngác ngơ đi vào chợ trời để bán bộ áo quần còn
lành lặn thì có người con gái gọi đúng tên tôi. Chiếc nón lá, quai lụa tím, tóc
ngang vai. Tôi ngó và tôi tưởng tai mình nghe lầm. Tôi chẳng thể nhìn ra chút
gì quen thuộc nơi khuôn mặt lạ lẫm kia. Anh Long bữa ni trốn ở chỗ mô hả anh?
Long hả, thì nó vô lại Sài-Gòn từ khuya, từ độ xấc bấc xang bang ai cũng giỏi
chân tháo chạy. Có còn mô đây mà hỏi. Cô là chi của hắn? Chuyện dài lắm, lôi
thôi lắm, làm răng nói năng… Chớ anh đi mô đây? Ôm kè kè cái bọc chi rứa?
Cô tên Ngà, đang hành nghề mánh mung. Cô thật thà khai báo.
Cứ đi lòng vòng, gặp con nai vàng cỡ như tôi thì nhảy ra chặn đầu, mua đi bán lại
thứ “chà đồ nhôm” chôm đồ nhà. Thượng vàng hạ cám đều có thể tiêu thụ giữa thời
buổi lắm phong ba mãi làm sấp ngửa.
Anh kẹt tiền hung? Ngà hỏi. Ai mà không kẹt. Tôi trả lời. Cần
tiền để trang trải chuyện chi? Ậy, cà phê thuốc lá cũng xúi mình tằn tiện việc
ăn việc mặc vậy. Cứ nhất y độc quỡn cho giống với người ta. Lạnh thân chớ không
thể buồn miệng.
Nhờ Ngà, bộ áo quần lành lặn của tôi bay biến rất mau. Ngà
đưa tôi nạm tiền rít rát như biết ứa mồ hôi, chất giấy xấu như thứ dành để cúng
cô hồn. Em không lấy tiền công, anh có thể bao em một chầu cà phê cà pháo
không?
Tôi chở Ngà ra tới đầu đường, chun vô ngồi dưới một mái tồn
che nắng của cái quán nước tả tơi ghế bàn. Nền đất nện không phẳng, ly tách
không đồng dạng, cà phê bít tất nằm trong cái ấm đen thui bắt trên kiềng ba
chân có ngọn lửa mãi táp. Mấy thanh củi ẩm làm cay mắt. Hai đứa ngồi xuống ghế
nhựa, phải xê dịch đôi chút mới tìm được sự quân bình. Một cà phê đá một chè đậu
đỏ. Thằng nhỏ ở trần nói vọng lui sau, nơi có sợi dây thép chùng mãi rung động
ba cái khăn nhàu rách đang phơi. Ngà ngồi gần, tôi ngó vô áo bà ba và thấy một
đường khe rám nắng. Hình như vì trời oi bức, chẳng thấy bóng dáng chiếc
xu-chiêng. Vóc vạc, mặt mày, tay chân, hình thể, tôi đoán tuổi Ngà khoảng hai
chục hoặc nhỏ hơn.
Em luôn loanh quanh khu chợ trời này. Lần sau kẹt tiền nhớ
chạy vô hú em một tiếng. Ngà nói khi nhìn chiếc xe đạp tôi dựng bên một gốc
cây. Cây thưa lá nên nắng chang chang trên vuông đất khô. Tôi cũng thấy mình kiệt
cạn dần, rụng từng ngày nghèo đủ thứ, nghèo tới độ có muốn đăng ký làm dân vô sản
cũng bị họ chê bai, không đủ tư cách. Một ngày chẳng xa, tôi sẽ bán chiếc xe đạp
ấy, tài sản giá trị cuối cùng để thoi thóp đón đợi tin vui. Người tôi yêu đã vượt
biên, chẳng thèm ừ hử. Tuy đau lòng nhưng tôi mãi mong cho người đến được bến bờ
trong an lành. Cả tháng dài lâu chưa nghe vọng động. Ở ngoài chợ có bà bán cá
thấy trong ruột nó lấp lánh chiếc nhẫn đính hột kim cương. Nghe lạ không? Chẳng
lạ, nhưng nên tránh ăn cá biển. Ăn cá sông hồ và con nào càng nhỏ càng tốt. Hừ,
tiền đâu mà mua cá to?
Cà phê cạn dần, hột đậu đỏ cuối cũng đã mắc vào kẽ răng Ngà,
chuyện vãn nhạt thua cả nước đá; cuối cùng tôi bới móc về dấu hỏi vĩ đại: Vì
răng em quen Long để rồi biết tới tên anh? Ngà đổi thế ngồi, tay cầm nón quạt
lia quạt lịa, tóc Ngà phất phơ mà mặt tôi cũng đón được chút gió thơm mùi mồ
hôi dầu của đương sự. Chừng mỏi tay, Ngà đưa mấy ngón mân mê sờ soạng chiếc
quai lụa, mặt cúi xuống. Anh còn nhớ cái bữa mà hai người chạy tới tiệm may để
ca cẩm kiện tụng cái quần tây không? Có thể là anh không biết chuyện ni, sau bữa
nọ, chẳng biết răng mà anh Long siêng trở lui để may áo quần. Em ở dưới quê lên
học nghề, hay đúng ra là lo cơm nước cho chú Quý, chủ tiệm. Ngồi khuất sau màn
chờ nghe sai việc, nay đơm bộ khuy, mốt thì chạy u đi vắt sổ, giặt khúc vải, ủi
cái áo… Chú Quý nói, tao chịu đèn cái thằng Sè-Gòn đó rồi. Hắn nhiều tiền,
không ưa cò kè trả giá, dễ tính, là hạng người mà mình có chặt đẹp hắn cũng mần
thinh. Hắn ưa ngủ đò cho biết sự tình mà tao can ngăn, vui thú chi nơi mà ham,
chưa kể dây dưa tới bịnh tình. Chú đưa em tám ngàn, nói mi ngủ với hắn chút xíu
có chết đi mô mà sợ. Em nhắm mắt đánh liều cho anh Long ưa làm chi đó thì mặc sức
làm. Em thì ốt dột mà anh Long thì gà mờ, loay hoay chi chút mà cũng bở hơi
tai. Anh nói: Thất bại! Lần khác anh lợi sẽ uýnh một trận ngó đường hoàng hơn.
Giờ thì anh phải dìa.
Tôi có kinh nghiệm đau thương, là khi mà bạn đã lỡ bán đi một
thứ gì đó, thì việc làm kia nó tạo trớn để bạn thấy dễ dãi tiếp tục lần hai, lần
ba, lần bốn… Cũng có thể mang thành ngữ ra để giải thích, tựa như: Ngựa quen đường
cũ, ăn quen bén mùi.
Chừng một tháng sau khi gặp Ngà, tôi lại đạp xe vào “thị tại
môn tiền náo”. Chỉ một tháng mà lắm đổi thay, chợ nhộn nhịp, người mua kẻ bán
đông chật hơn, phạm vi được nới rộng ra. Duy có thứ vẫn bổn cũ soạn lại, vẫn một
mực giữ nguyên, đó là thần sắc người ngợm vô ra thảy đều lạc hồn xanh mướt chân
đi xiêu lạc áo quần tả tơi. Sáng ra đứng phố ngồi hè/ Phồn hoa đô hội đâu dè
thế ru.*
Ngà rất mừng khi ngó thấy tôi, cái tở mở thành thực nằm đọng
trong đôi mắt long lanh. Ngà đủ thông minh để hiểu thấu cớ sao tôi dẫn xác vào
chốn này. Ngà phủ bàn tay lên những ngón tôi bấu vào ghi-đông xe. Anh tìm em phải
không? Chơ cớ làm răng mà mặt anh xanh ngắt ra rứa? Tôi thiếu chất dinh dưỡng,
bên bệnh viện họ phán rứa. Cậu thiếu vitamin, thiếu đủ thứ, A, B, C, D, E. Đừng
có đi bán máu nữa nhé. Tôi viết cho cậu tờ giấy chứng nhận để khỏi phải đi lao
động xã hội chủ nghĩa vào chủ nhật tới. Nên bồi dưỡng, nên tranh thủ ăn nhiều
chất đạm vào. Nhớ chưa?
Tôi không nhớ gì cả. Tôi chỉ nhớ Ngà. Tôi thiếu vitamin N.
Khủng hoảng thiếu. Trầm trọng vắng. Tôi hỏi Ngà ở đâu? Ngà nói ở chung với đứa
bạn buôn bán ve chai và đồ đồng nát, gần chỗ ni, có điều tồi tàn lắm, cốt để
tránh gió mưa. Chỉ chỗ đi, anh chở em về. Anh đang nói chơi à? Nói chơi làm chi
cho tốn hơi. Anh nói thiệt, anh bán chiếc xe đạp ni cho Ngà, mua không? Ôn mệ
ơi, tiền bạc mô đủ mà mua anh. Đời em như tấm mền rách thì anh cũng đã chộ rồi.
Bậy nà, anh chưa hề thấy qua. Nói thiệt nghe, khúc đưới của em có hơi xấu, ở côi
thì ngó tàm tạm, còn khúc trữa? Chắc Ngà phải cho anh thấy mới nói năng linh
tinh như ông Quý tiệm may.
Ngà cười một tràng trong vắt. Nếu tôi là bạo chúa sẽ bắt Ngà
về cười suốt, thay vì nghe tiếng xé lụa hoặc tiếng lửa reo bên doanh trại đối
phương. Một tiếng cười hưng phấn. Ngà nhảy phóc lên yên sau, mang nguyên cả
cánh tay ra ôm choàng lấy tấm thân gầy xé gió của tôi. Tôi cảm nhận được cái mềm
mại của trái vú sữa nằm gần khúc côi của Ngà. Thứ trái cây rám nắng tự nẩy nở lấy
mà chẳng nhiêu khê chín dú trong xú-chiêng.
Cửa đóng then cài không lâu, tôi và Ngà lần lượt mở khóa cho
nhau. Ngà mặc quần vải mỏng có tròng dây thun ở lưng, thắt thỏm. Đói ăn bụng
lép rồi dây thun đang tới hồi lỏng, mất tính đàn hồi co dãn nên chi thoắt một
cái là khúc trữa lộ hình. Nó sẽ tiết ra một dòng sữa mật mà riêng viện bào chế
chẳng chịu gọi là vitamin. Nó sẽ bồi dưỡng cho tôi thứ mà văn học gọi là trái cấm
ở thiên đường nhiều cám dỗ.
Tôi ôm giữ lấy khuôn mặt Ngà. Tôi hôn vào môi khô đang bấn
loạn thở. Tôi đồng ý với anh là khúc đưới hơi thô thiển, nhưng phần côi và khúc
trữa xoắn tít những cụm chỉ rối vụng về tay gỡ, thì phải mạnh dạn để nói, đó là
tặng vật của đời.
Tôi vật Ngà xuống tấm chiếu có vẽ hình long phụng đưa móng
bám giữ chữ Phúc. Hôm qua tôi nghe hung tin, người yêu tôi/ người tôi yêu đã bị
rơi vào tay bọn hải tặc Thái. Tôi đã chết, hôm qua. Và hôm nay, hồn ma tôi chợt
hiện. Nó yêu Ngà để nước mắt quỷ sứ tự dưng chảy hoen ra chiếu lạnh.
Tiếng rao “Có ai bán nồi niêu chén bát sứt cọng gãy càng
không” chẳng làm cho hai con thú tật nguyền phân tâm. Chúng mải chia ngọt sẻ
bùi dưới căn hộ hoang sơ tựa một cổ mộ mà thời buổi đương đại này chưa đủ chất
xám để định hình, giải mã, rêu rao.
* thơ Bùi Giáng
Hồ Đình Nghiêm