Chương 2: Chuông gọi hồn ai?
Đêm thứ nhất, sau khi trét xong cái vách đất biến ngôi nhà thành một cái
hang lộ thiên khổng lồ, ông không thể nào chợp mắt được. Cái mùi xăng vẫn còn
nồng nặc, rồi mùi của đất ướt ngai ngái, mùi của bóng tối đậm đặc, mùi của cây
gỗ bị rang nóng… làm ông ngạt thở. Đã mấy lần ông chui ra ngoài hiên, ngồi đốt
thuốc nhìn trời. Ngân hà giống con sông chảy qua làng trong mùa lũ, trông mênh
mang cả một trời sao trắng đục. Ông thấy sao con công vẫn còn kéo cái đuôi óng
ánh dài lê thê, sao con vịt xấu xí hếch cái mỏ lên trời và ông nghe thấy tiếng
con chim heo kêu ụt ụt. Không có tiếng vạc kêu, cũng không có tiếng chim cú ném
vào đêm tối những tiếng kêu dài ma quái. Đất trời vẫn yên hàn thanh tịnh, chỉ có
lòng người vẫn không ngớt dậy lên những trận phong ba kinh hồn, lúc nào cũng để
lại những tiếng dội âm ỉ như tiếng sấm rền trong mây.
Cớ làm sao chỉ một bước mà mình đã lên địa chủ? Rồi một bước nữa là phản động.
Đâu phải mình muốn bước mà mình bị đẩy lên, bị nắm tóc kéo lên chỉ sau một
tiếng nói của nó. Mình đâu có gây thù kết oán gì với nó? Hay là lúc mình cản
không cho nó đem cái áng thờ của đình về nhà? Mình đã nói cái vật này linh
thiêng lắm, không còn đình thì đem tới chùa chứ đừng đem về nhà. Mình nhớ ra
rồi, lúc ấy nó quắc mắt lên trông rất dễ sợ. Nhưng nó đã mang được của đình về
nhà, cứ tưởng thế là xong, không ngờ nó vẫn không quên. Mình ngu quá. Mình bị
nó làm khó làm dễ, sắp đem ra đấu tố cũng phải thôi.
Lúc ông chui vào để cố ngủ một chút, ông bất ngờ nghe đâu đó có tiếng nghiến
răng. Kèn kẹt, kèn kẹt! Cái âm thanh của những chiếc răng cấm cạ siết vào nhau
trong đêm, nhất là trong cái nhà không cửa sổ này, nghe thật khó chịu. Ông giật
mình ngồi dậy. Phải một lúc ông mới nhớ ra rằng đó là tiếng nghiến răng của cô
con dâu. Tiếp theo là tiếng nuốt nước bọt ừng ực. Làm như thể hai hàm răng đó
đang xay bột. Giờ ông mới nhớ ra căn nhà lẫm bên cạnh không có mái đất bên
trên, đã cháy. Đó là buồng ngủ của hai vợ chồng cô. Và đó cũng là kho hàng với hàng
trăm ký hành rải trên nền nhà, hàng trăm xâu tỏi khô treo nhỏng nhảnh. Cô quen
thuộc cái mùi nồng nồng ấy đến nỗi khi nằm chỗ khác, cô cũng thức trắng không
tài nào ngủ được. Cô nói sao nó lạt lạt, khó chịu quá. Ông đã mắng, nói tầm
bậy, đâu phải nhà làm nước mắm mà thấy lạt, mặn! Cô chỉ cười.
Cái nhà lẫm không còn, cả cha chồng và nàng dâu đành chui rúc trong hang như
hai con chồn trong truyện Liêu Trai. Thực là chuyện lạ suốt 12 đời họ Phạm giờ
mới có. Cái ngọn lửa của quân thù thực hiểm độc. Chẳng những đốt nhà, nó còn
đốt luôn cái bức tường vô hình dựng lên suốt mấy trăm năm. Cô con dâu chưa bao
giờ dám ngửa mặt ngó bố chồng chứ nói chi đến chuyện cùng chui ra chui vào như
thế. Và dĩ nhiên dù có nghiến răng cũng chỉ quấy rầy cái lỗ tai của chồng chứ đâu
có đến bố chồng. Vậy mà giờ đây nó cứ rít lên như dế gáy.
Chỉ còn một chỗ để cho cô ngủ là cái rương xe của mẹ chồng. Đây là một cái
sạp bằng gỗ kiềng kiềng rất nặng, có bốn bánh xe để chuyển dịch. Những nhà khá
giả khi cất nhà đều làm một cái rương như thế để cất giữ những vật quý giá
nhất. Chủ nhà ngủ trên đó như thần giữ cửa. Chỗ của mẹ chồng mà phải nằm lên là
đã thấy ngại rồi. Trên đầu cô lại là cái xà định mệnh. Ngủ dưới một cái xà treo
cổ làm sao mà ngủ được!
Cô cứ nhìn trừng trừng vào bóng tối. Đã mấy lần cô muốn hét lên khi nghe có
tiếng chuột chạy, hay lờ mờ tưởng chừng cái lưỡi của cô thứ chín cứ dài mãi ra,
dài mãi cho đến lúc chạm vào da thịt cô, liếm như chó liếm. Nhưng rồi sau những
ngày dài căng thẳng mệt mỏi cô cũng thiếp ngủ lúc nào không hay. Và trong khi
ngủ say cô lại nghiến răng kèn kẹt như một con tắc kè trong bộng cây.
Ông hơi bất ngờ khi biết mình và cô con dâu cùng phải ngủ trong một căn nhà,
cùng hít thở cái mùi không khí cháy sém, khô rốc đến rát họng. Ông vốn khó ngủ,
tiếng con thằn lằn, tắc lưỡi, tiếng con chuột chạy, giờ lại thêm tiếng nghiến
răng! Ông nhớ lúc nhỏ cũng đã từng bị cái bệnh nghiến răng như thế. Nghiến trèo
trẹo cả đêm không cho ai ngủ được. Mẹ ông đã phải mua về mấy cái c… heo đem
luộc, giả như da heo trộn gỏi để dụ ông ăn. Từ đó răng ông mới thôi nghiến.
Nhưng, nó là gái thì có ăn được không và chẳng lẽ lại bảo nó đi mua cái thứ mà
con gái đàn bà nào cũng mắc cỡ đỏ mặt. Thôi thì mặc nó nghiến cọt kẹt nghe cũng
đỡ buồn. Thì cũng giống như nghe một anh kéo đờn cò đang thử dây vậy thôi. Ông
cười thầm, nằm nghiêng qua một bên cố dỗ giấc ngủ.
Đúng lúc đó ông nghe có tiếng trống tum, tiếng mõ, tiếng phèng la hoà cùng
tiếng thùng thiếc. Rồi tiếng hô đả đảo địa chủ, đả đảo ù lì! Tất cả như từ trên
trời rơi xuống, từ dưới đất chui lên bao kín ngôi nhà trọc tròi của ông. Đám
thiếu niên đã được lệnh quấy phá ông, thế là không cần tuyên bố trước dân làng,
ông đã bị quy vào địa chủ phản động. Từ nay ông hoàn toàn bị bao vây cô
lập.
Ngọn đèn dầu phụng nhỏ như hạt đậu leo lét trên bàn thờ chỉ làm cho bóng tối
trong nhà như đậm đặc hơn lên. Tiếng động bên ngoài bất ngờ làm cho nó sủi bọt
như trong một nồi cám heo. Ông hốt hoảng lăn xuống phản bò đến cái lỗ ra vào.
Cô con dâu cũng không còn nghiến răng nữa, tỉnh như sáo, đến kê đầu bên cạnh
ông, nhìn ra.
Cả hai cùng nín thở.
Bọn trẻ tụ tập ở ngoài ngõ, nhưng chưa vào trong sân.
Dường như chúng đang đợi lệnh.
Một cây đuốc chạy như bay tới.
Và bọn chúng lập tức tràn vào.
Hai cha con cũng lập tức thụt đầu vào, lấy ván đậy lại. Vẫn chưa yên lòng,
cả hai cùng cố sức đẩy cái rương xe nặng chịch để trấn giữ. Cả hai cùng tựa
lưng vào vách thở hào hển. Nếu người này đặt tay lên ngực người kia chắc nghe
được tiếng trống ngực dồn dập chẳng khác gì những tiếng hỗn độn ở bên ngoài.
Chúng có phá nhà không cha? Cô lo lắng hỏi. Không đâu, ông trấn an, chúng chỉ
làm huyên náo vậy thôi. Phải cố giữ bình tĩnh. Có một miếng vách bể ở phía sau,
hay là mình lén chui ra, cô thì thào bên tai ông. Không được đâu, chúng đang
hung hăng. Chúng mà thấy được thì khổ.
Bỗng: bịch! bịch! Đất cục và gạch vụn ném tới tấp vào nhà. Tấm vách ướt mới
trét rung lên. Cùng với tiếng gạch đá là tiếng hô đả đảo, tiếng mắng chửi thủ
bản Khâm ù lì. Cái trò này được đặt tên là dạ náo tức là quậy phá làm
cho kẻ thù mất ăn mất ngủ. Hằng đêm, chúng tụ tập ở gò đình, sau khi nhảy xôn
đố mì mỏi chân liền kéo đến nhà tổng Bá, giờ đến lượt nhà ông. Vì đây là
kẻ thù mới nên chúng gõ trống mõ to hơn, đập thùng thiếc mạnh hơn, chúng còn hò
reo đòi phá nhà. Chỉ cần mỗi đứa một tay đẩy nhẹ thôi là cả tấm vách đổ nhào.
Chúng sẽ xách cổ ông và cô con dâu như xách tai hai con thỏ. Chúng sẽ đốt thêm
đuốc dẫn đi quanh làng cho mọi người thức dậy xem. Chúng sẽ bày ra nhiều trò
khác mà ngay cả trời cũng không biết được.
Áp mặt mình vào cánh tay cô con dâu, vai ông rung lên. Một chút nước nóng
són ra ở đáy quần. Ông xấu hổ muốn khóc. Cô con dâu bỗng mạnh mẽ, đứng dậy. Cô
mở nắp rương, nói: Hay là cha chui vào trong rương đi. Nếu chúng vào thì con
nói cha đi đâu không có nhà. Không được, không được, ông nói trong tiếng khóc,
tóm được là chúng xé xác ra ngay! Đã là địa chủ phản động thì có chui xuống đất
cũng không trốn được.
Đả đảo địa chủ! Đả đảo!
Lôi cổ nó ra đây! Lôi cổ!
Hai người cứ chịu trận cái trò dạ náo như thế cho đến lúc chúng ném hết đất
đá, mỏi tay, mới bỏ đi.
Đợi cho thật xa, thật yên, hai cha con cố sức đẩy cái rương xe sang một bên.
Ông chui ra trước để thở và tìm nước uống. Ông thả gàu xuống giếng, kéo nước
lên, nốc một hơi đầy bụng. Còn nước, ông cúi xuống xối ướt cả đầu. Ông ngồi
trên hiên, giờ không còn cột và cái mái tranh vểnh cong như mái đình, thở dốc
ra như dốc ngược cái bao than trút xuống đất. Quả thật, chưa bao giờ ông sợ đến
nghẹn thở như vừa rồi. Ông không hiểu vì sao lại có thể sợ đến thế. Mà lại sợ
những đứa trẻ chỉ bằng tuổi cháu ông. Sợ tiếng trống tiếng mõ của chúng, sợ
tiếng hô đả đảo, sợ cái cảnh chúng hùa theo đám dân quân dẫn ông đi ra sông như
đem chó đi trấn nước. Đột nhiên ông cảm thấy cái yên lặng của đêm tối còn đáng
sợ hơn là những tiếng la hét ồn ào. Trong bốn bức tường, dù sao ông cũng được
che chắn, còn ở giữa đất trời ông thấy mình hụt hơi đuối sức mà chẳng bám víu
vào được một chỗ nào. Ông lại chui vào nằm ngay trên sàn nhà, thở.
Đã có lần ngôi nhà tươi tắn như một cô gái sắp về nhà chồng. Một rạp to phủ
kín mặt sân, những chiếc đèn lồng màu đỏ đu đưa trong gió và có đến những bốn
cây tạ đăng làm sáng rực cả ngôi nhà. Những cây cờ đuôi nheo bay phần phật với
những cái tua màu đỏ vòng vèo như râu mực. Rồi ban nhạc với đầy đủ trống kèn cò
nhị rúc lên những tiếng ai oán trong khi trống đánh hồi một thùng thùng. Đó là
lúc người ta đón mừng một tân khoa họ Phạm dưới triều Tự Đức. Ngày ấy đã hơn
trăm năm nhưng những người trong họ vẫn tưởng như mới xảy ra hôm qua và ai cũng
nói về cái tài thơ phú của người đã khuất với tất cả trịnh trọng nhưng sai
lệch. Ai cũng tin rằng mình đúng và hai cánh mũi lúc nào cũng nở to phập phồng
với một vẻ đắc thắng và tự hào.
Ông tổ 12 đời của họ Phạm đến lập nghiệp ở làng An Định có một cái mả dài
đến những 12 thước rộng 1 thước. Nếu quả thật ông cao đến như vậy người ta chắc
phải ghép cau lại để làm hòm cho ông. Phải chục đứa chắt chít gì đó mới giẫy
xong cái mộ của ông trong buổi sáng tháng chạp. Cũng có thể là ông làm quan võ
khá to vì chẳng hiểu từ bao đời, nhà họ Phạm lại được hưởng mấy mẫu ruộng công
thần. Một điều lạ là con cháu các đời sau đều có tên tuổi ngày sinh ngày mất
trên bài vị, nhưng ông thì không. Cái bài vị cao nhất đẹp nhất chỉ ghi mỗi một
chữ cao tổ mà thôi. Trải qua 12 đời, đã có bốn mươi hai người chết chôn ở núi Mò
O và để lại bài vị trên bàn thờ họ Phạm. Ông thủ bản Khâm là cháu đích tôn nên
có vinh dự và bổn phận chăm sóc bốn mươi hai bài vị cùng bốn mươi hai ngôi mộ.
Nếu người chết nào cũng phải cúng giỗ thì mỗi năm ông phải làm đúng bốn mươi
hai mâm cỗ, đó là chưa nói tới ngày tết. Nhiều người xì xầm rằng ông đã bớt xén
trong việc cúng đình để có thể lo nổi bốn mươi hai đám giỗ ở nhà. Ông thề có
trời đất chứng giám rằng ông không thèm tơ hào một bụm nếp hay rẻo thịt nào bởi
vì ngoài hai cái giỗ cha mẹ không thể không cúng để trả nợ miệng, còn ngoài ra
chỉ cây nhang bát nước mà thôi. Ông không sắm nổi hay sao mà phải động đến của
thánh thần. Nhiều người có vai vế trong làng đều tin ông vì không ai qua được
ông cái tính sạch sẽ tinh khiết. Từ con heo, cân nếp cho đến bình bông nải
chuối ông đều tự tay chăm sóc rất cẩn thận. Ngày cúng đình ai cũng được ăn no
và ăn ngon, các vị hào mục lại còn được kỉnh nửa cái đầu heo hay tợ thịt. Nhưng
cũng chính vì vậy mà ông bị kết tội là cùng ăn cánh với hương lý trong làng nên
bị đẩy thêm một nấc nữa là địa chủ phản động!
Vợ chồng tổng Bá đã phải quỳ đến rướm máu để dân hỏi tội. Cụ cử Vân bị đem
ra sông nhúng nước trong tiết đông chí. Giờ đến lượt ông. Trong số các địa chủ
thì ông trẻ nhất. Ông lại có chút ít võ nghệ nên không dễ gì thoi đạp mà ông
chết được. Vì vậy người ta đã phải chặt mấy gốc tre đực chẻ làm tư, lấy những
miếng cong cong như gậy đập đậu nành để chờ lệnh là hỏi tội ông ngay. Trong
buổi họp chi bộ, đồng chí Khứ đã nêu rõ quyết tâm sẽ đấu với tên ác ôn thứ ba
này một trận ra trò.
Tháng mười mưa lụt, trong một đêm bà giật mình thức giấc khi cái rương xe to
nặng chứa đầy đồ từ khí của nhà họ Phạm bỗng nghiêng hẳn đi như sắp được nhấc
bổng lên. Bà chưa kịp đặt chân xuống đất thì nó đã lật ngửa như một con trâu
nằm phơi bụng. Một luồng nước mạnh ùng ục từ dưới đất trào lên đẩy cái rương
vào sát vách và ném bà xuống nước. Rất may bà ôm được một cây cột leo lên. Sau
đó chẳng những chỉ riêng người nhà họ Phạm mà cả xóm Miễu ai cũng kinh hoàng vì
bọn trộm trong mùa nước cạn đã đào một đường hầm từ bờ sông vào tận buồng ngủ
của vợ chồng. Khi xong việc chúng đã đốt một cái chòi vịt để dụ hai người ra
xem. Và đêm hôm đó, từ dưới đất, chúng đã đẩy cái rương qua một bên, dọn sạch
tất cả những gì chứa đựng trong đó. Bao nhiêu những đồ đồng thau, chén bát bằng
sứ, những nồi bảy nồi ba, những mâm to chảo lớn đã không còn. Cái giỗ năm ấy
ông phải đi mượn của đình đem về cho bà mới đủ lo cho cả trăm người ăn uống.
Ngày đó trước cách mạng và ông đã đem trả cho đình không thiếu một đôi đũa,
nhưng ông Khứ vẫn bảo là chưa trả. Ông đã mời ông Khứ đến nhà lục soát nhưng
ông Khứ lại bảo cái đường hầm ấy đâu phải trộm đào mà chính nhà ông đào để
chuyển tài sản ra đường sông! Mãi đến khi chết ông cũng chưa hiểu được rằng khi
những người thay mặt đảng, bảo trắng là phải trắng dù đen, và bảo đen là phải
đen dù trắng. Hãy cứ nhắm mắt mà tin vào. Đã không tin mà còn cãi lại thì cái
chết là không tránh khỏi.
Ông chưa kịp tiếc thương cái ngôi nhà cùng lớn lên với ông thì đã bị nhốt
trong hang. Chẳng những ông bị giặc Pháp căm ghét vì có một cái nhà to như một
kho thóc mà còn bị xóm làng xa lánh, bị đám thiếu niên cờ đỏ bao vây. Nằm trong
bốn bức tường với một cái lỗ để chun ra chun vào, ông đã hiểu được thế nào là
lô cốt. Có điều lô cốt của tây thì làm bằng xi măng kiên cố, có lỗ châu mai bốn
hướng để quét từng tràng đại liên. Còn ngôi nhà vừa mới bị tây đốt của ông thì
chống đỡ làm sao với sức mạnh điên cuồng của bần cố nông lao động! Nghĩ tới
cảnh bọn họ đạp tấm vách mới trét vào lôi cổ ông ra nhét vào bội mạ khiêng đi
mà rùng mình. Trước tiên bọn họ sẽ đi diễu quanh làng. Ông sẽ bị gai bàn chải
đâm, sẽ phải chịu đau nhức như có hàng trăm con ong vò vẽ cùng bu vào đốt. Bọn
du kích sẽ dùng gậy thọc vào ông như thọc vào những con chó trong chiến dịch đại
sát cẩu. Cũng có thể bọn họ sẽ bỏ ông xuống hầm tròn rồi hun trấu xung quanh.
Và nếu trời không rét bọn họ dám đun sôi nước tạt vào ông. Chiến đấu với bọn
gian ác tức là phải nghĩ ra cách gì làm cho chúng khổ sở điêu đứng, muốn chết
mà vẫn không chết được. Đã có kẻ nghĩ ra cách chẻ những cây lồ ô rồi bó lại bắt
địa chủ cởi quần áo từ trên tuột xuống. Chừng vài lần thì còn gì là da là thịt.
Nghe lạnh mình còn hơn Pháp lấy kềm lột móng tay.
Ông ngồi dậy khêu cao cái tiêm dầu phụng. Ông đứng lên phản tìm cái dùi
chuông và chậm rãi gõ đúng bốn mươi hai tiếng. Trong những ngày qua, hết nhà
cháy đến trét nhà, ông quên mất phải thỉnh chuông để gọi bốn mươi hai linh hồn
về với tổ đường. A Di Đà Phật, ông vái hai vái rồi nằm xuống phản. Ông mơ hồ
cảm thấy như tiếng chuông hơi bị rè, có lẽ là do sức nóng chứ chuông đâu có rơi
xuống đất. Đây là cái chuông quý, được lấy lên từ cái giếng lạng trong vườn.
Ngoài quả chuông còn có hai bộ xương một to một nhỏ chắc là của hai vợ chồng.
Có người bảo là của Hời nhưng ông cãi Hời làm gì có chuông.
Ông cố dỗ giấc ngủ bằng cách nghĩ tới người vợ. Ông rất nhớ cái cách bà chăm
sóc ông. Cứ như mẹ chăm con vậy. Mùa nóng bà cắt quạt mo cho ông quạt, mùa lạnh
bà đốt than để dưới gầm giường cho ông sưởi. Không tình tứ, không ồn ào, nhưng từ
cọng rau thơm cho đến miếng bánh đều được bà chăm chút còn hơn cho chính bản
thân mình. Trong những năm phải ăn độn, chính bà hấp mì khô lên trên để riêng
phần bà, còn ông thì phần cơm không độn. Khi bà còn sống, ông coi đó là những
chuyện vụn vặt, tầm thường. Có cũng được, mà không có cũng chẳng sao. Nhưng bà
mất đi, giờ ông mới thấy những lo toan tỉ mẳn đó sao mà thắm thiết, xót xa đến
như vậy.
Kháng chiến đã đem những người con trai vào nơi bom đạn chỉ để lại ở nhà
những người già, những cô vợ không chồng, những đứa du kích mặt còn búng ra
sữa. Bọn chúng tay cầm gậy, lưng đeo dây dừa, lúc nào cũng nghênh ngang đi khắp
đường làng, hạch hỏi những ai ra vào các nhà đã bị ông Khứ quy là địa chủ. Nếu
được lệnh áp giải ai đó là chúng sung sướng như được cho quà. Chúng rầm rập bao
quanh kẻ tội đồ vừa cầm gậy thúc vào sườn, gõ vào đầu vừa hò hét còn hơn là khi
chúng lùa trâu ra đồng. Chẳng cần biết già trẻ, đàn ông hay đàn bà, chỉ biết đó
là bọn phản động, bọn bóc lột, bọn tay sai, là chúng đã coi họ còn tệ hơn một
con vật.
Sau này, khi mọi sự giống như một bệnh dịch đã qua, chúng ngẩn ngơ không
hiểu vì sao lúc đó lại có thể hung hăng đến như vậy. Có người bảo rằng chúng
chỉ là thuốc nổ còn ngòi chính là ông Khứ, bà Thảnh. Sau hiệp định Giơnevơ, hai
cái ngòi nổ ấy đi tập kết là chúng trở lại làm những nông dân nghèo ít học nếu
không muốn bảo là ngu dốt. Chúng được cha mẹ cắt tóc, tắm gội sạch sẽ, mặc áo
quần mới rồi đi cưới những cô nữ dân quân cũng ngơ ngáo và ngu như thế về làm
vợ. Rồi một thế hệ mới bụng ỏng, mặt mũi nhem nhuốc ra đời, lúc nào cũng chống
mắt ra mà nhìn người từ thành phố về như nhìn người ngoài hành tinh. Có một
chiếc xe nào chạy qua là chúng vung tay múa chân đuổi theo trong đám bụi mù một
cách khoái trá. Và rồi chúng lại lớn lên lấy nhau sinh con đẻ cái. Những vòng
đời nghèo đói ít học cứ miên man nối tiếp nhau như thế trong cái tĩnh lặng quen
thuộc của xóm làng.
Ông vẫn chưa ngủ được. Có nghĩ đâu đâu rồi cũng loay hoay trở về với những
nỗi lo, nỗi sợ chất chứa trong đầu. Bên ngoài, tiếng trống mõ lại nổi lên. Rồi
tiếng hô đả đảo, rồi đất đá ném vào nhà. Chúng tấn công lần nữa và hai cha con
lại phải xoay cái rương xe để chận cái lỗ ra vào. Thôi mặc, muốn chửi rủa mắng
nhiếc ù lì phản động hay gì gì nữa thì xin cứ việc. Đây mệt mỏi lắm rồi. Mà đây
cũng đếch thèm sợ nữa. Chết là cùng chứ gì. Ai chẳng phải chết ngay cả sống đến
ba trăm năm như ông Bành tổ.
Lặng yên một lúc.
Rồi lại bình bịch, bình bịch!
Hoá ra chúng vào trong sân. Thay vì ném đá, chúng dùng chân đạp vào vách.
Cái tấm vách vừa trét chưa khô rung lên, nhiều mảnh đất trộn rơm rơi xuống.
Bỗng có một bàn chân chui tọt vào trong. Cô con dâu sợ hãi rú lên nhưng ông
chộp lấy rồi dùng hết sức kéo mạnh vào. Nghe bên ngoài có tiếng la hốt hoảng.
Ông muốn bẻ quặp cho lọi cẳng ra, nhưng nghe tiếng, ông biết nó chỉ chừng mười
tuổi nên đẩy mạnh ra ngoài. Chủ nhân của cái chân hú hồn. Bọn nhỏ cười lớn rồi
kéo nhau chạy mất.
Ông giật mình khi nhớ tới đứa cháu ngoại. Nó mười tuổi, chắc cũng vào đội và
đêm đêm đi quậy phá những nhà địa chủ. Mẹ nó dù có muốn bắt nó ở nhà cũng không
được. Nó không còn là con của cha sinh mẹ đẻ mà là con của đảng, cháu của bác.
Có lần ông nghe một người bạn ở Yên Thới kể rằng đứa cháu của ông ấy chui vào
nhà địa chủ. Nó được lệnh nằm dưới gậm giường để nghe vợ chồng bàn chuyện trốn
thuế hay tẩu tán tài sản. Nó chẳng nghe được gì ngoài tiếng vạt giường kêu răng
rắc. Nó sợ sập liền chui vào nằm dưới gậm phản. Rồi mệt mỏi ngủ quên, sáng ra
bị chủ nhà bắt được. Nó tưởng bị dẫn tới nhà mắng vốn, nhưng chủ nhà chỉ cười,
bảo nó đi về, lại còn cho một trái xoài tượng trên bàn thờ.
Ông ấy bảo dạy trẻ con làm những chuyện như thế thật trái với đạo lý. Đâu có
chỉ rình mò như kẻ trộm mà còn bịa không nói có để được khen là ngoan, là có
tinh thần đấu tranh cách mạng. Nhiều đứa ranh ma đã dựng nên những chuyện động
trời. Như giấu vàng dưới giếng, hay chuẩn bị trốn vào vùng tề. Báo hại chủ nhà
thì bị bắt trói còn bọn dân quân phải mất cả ngày để tát cạn giếng, đào bới, và
đêm đêm phải canh cả vòng trong lẫn vòng ngoài. Như thế thì có muốn sửa chữa
dạy khác đi cũng đâu có được. Nghe đâu ở bên nước bạn Trung Hoa có những nông
trang rộng mênh mông, cùng làm cùng ăn, ai làm nhiều ăn nhiều, ai làm ít ăn ít.
Ở đó, nam ở một trại riêng, nữ một trại riêng, mỗi tháng gặp nhau hai lần. Con
sinh ra có nhà nước nuôi, khỏi phải mắc công chăm sóc dạy dỗ gì cả. Chúng nó
suốt ngày ca hát chơi đùa cứ như ở trên thiên đàng.
Nghe nói thế, ông hết muốn có cháu nội.
Bọn chúng đi rồi, ông bảo con dâu giúp ông đẩy cái rương xe qua một bên. Ông
muốn chui ra ngoài. Trời đêm thật mát dịu. Vẫn sông Ngân quen thuộc vắt ngang
giữa bầu trời, vẫn con công đầu đội mũ bình thiên và núi non cây cối vẫn xanh
dịu im lìm, cớ sao những con người ở đây lại khác xưa đến như vậy. Giá như
không có kháng chiến, giá như không có đấu tranh giai cấp thì chắc hẳn ông đang
ngủ nghê thoải mái và lũ nhỏ cũng ngủ mê, có đứa nói mế có đứa đái dầm. Ông Khứ
bà Thảnh chắc cũng như ông Sáu Hủ bà Hai Thành quanh năm chỉ biết có con trâu
cái cày và một bầy con cùng với gà heo lúc nhúc trong chuồng. Cái gì làm
cho họ lồng lên như thế? Ông Mác ông Lê là ông nào mà làm cho cả thế giới sôi
lên sùng sục? Lại còn ông Xít, ông Mao, ông Kim, ông Phiđen… nhiều ông quá chen
chúc trên cái bàn thờ tổ quốc. Cứ mỗi lần có đại lễ thì các ông lại xúm xít
quanh ông Hồ, y như bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ họ Phạm. Mà họ đâu có
bà con anh em gì với nhau. Họ bảo cùng lý tưởng giải phóng loài người.
Ông đứng lên định đi tiểu nhưng lại nghe tiếng nước xối ào ào trong bụi
chuối gần giếng nên lững thững đi ra ngõ. Chỉ mới mấy tháng trước đây thôi khi
chưa phát động chiến dịch đấu tố, rào dậu nhà ông lúc nào cũng thẳng thóm.
Những cây duối cành lá đan vào nhau được cắt tỉa cẩn thận trông như một bức
tường màu xanh. Cái mái của nhà ngõ cũng toàn duối được dưỡng cao uốn cong
trông rất đẹp. Từ Yên Thới qua những đám ruộng lúa chín vàng, ông đã trông thấy
cái cơ ngơi màu xanh của nhà họ Phạm. Tất cả là nhờ một tay Bốn Ngọ, một anh tá
điền ít nói làm rẽ của ông đến hai mẫu ruộng đã thay ông chăm sóc. Nhưng sau đó
được đảng giác ngộ, thực ra là ông Khứ buộc, phải trả lại ruộng cho ông dể khỏi
phải làm người nô lệ. Ông bỏ mặc cho cây lá muốn mọc ra kiểu gì cũng được. Cái
mái nhà ngõ rũ xuống, nhiều cành muốn chọc vào mắt, ông cũng không thèm cắt
bớt. Ông bước ra khỏi ngõ vén quần phóng nước giải xuống ruộng nghe tỏng tỏng.
Cô con dâu tắm xong đã chui vào nhà. Nước mát đã đưa cô vào giấc ngủ. Cô lại
bắt đầu nghiến răng. Kèn kẹt, kèn kẹt. Như tiếng một con nhồng học nói, nhưng
ông nghe như tiếng của lưỡi cưa chạm vào ngà của một tay thợ tàu chuyên làm đũa
ngà cho những cặp vợ chồng mới cưới. Những đôi đũa một đầu vuông, một đầu tròn
có khắc những chữ hán bôi sơn đen và đỏ rất đẹp. Cái gã thợ tàu ấy không hiểu
vì sao chỉ làm những đôi đũa quý hiếm ấy trong đêm khuya. Gã cắt ngà ra từng
khúc, xẻ nhỏ, rồi mới chuốt láng từng chiếc. Gã tỉ mẩn hứng từng chút bột ngà
rơi xuống nhỏ mịn như trứng tằm. Để làm thuốc, quý lắm, gã nói. Cũng may là gã
sống ở phố Quy Nhơn chứ nếu ở An Định, gần mả Thập miên thì người ta dễ tưởng
lầm là gã đào mồ lấy trộm xương lên làm.
Ông nhắm mắt cố ngủ nhưng tiếng kèn kẹt vẫn như lưỡi cưa mỏng đi xuyên qua
đầu. Ông lại nhớ tới tiếng con mụ Dĩa khi sỉ vả ông tổng Bá, nó cũng rin rít
qua hai hàm răng như thế. Đó là căm thù. Còn con nhỏ thù ai? Chẳng lẽ thù ông
hay thù cả nhà họ Phạm này? Mà cũng có thể lắm, nó được gì khi phải sống trong
nhà này. Chồng không có, như đứa khác thì đã dắt trai vào nhà, bằng không thì
cũng bỏ mặc cái giường lạnh lẽo đó mà chui vào một cái giường khác. Nó ngu hay
mình ngu? Ông lại nghe rõ tiếng nước chảy trong bụi chuối, lại mơ hồ thấy nước
chảy qua áo qua quần, lại tưởng đến bàn tay đang kỳ cọ, những ngón nhỏ len lỏi…
Ông rùng mình ngồi dậy. Nằm trên phản mà ông tưởng như nằm trên nắp ván
thiên. Bốn mươi hai bộ xương lớn bé của nhà họ Phạm kêu lột rột trong đó! Ông
đứng lên mò tìm cái dùi chuông và như phát cuồng, ông nện liên hồi kỳ trận vào
cái chuông mà không cần biết là bao nhiêu tiếng. Cái chuông tội nghiệp đang say
ngủ bỗng giật mình kêu thét lên. Nó vừa kêu vừa nhảy choi choi như một đứa bé
bị ăn đòn oan. Bốn mươi hai cái bài vị trên bàn thờ đều nhỏm dậy. Cái chuông bị
tra khảo giống như bị đấu tố đành chịu trận cho đến khi đứt dây rơi xuống phản.
Nó tự gõ thêm một tiếng choang đau đớn rồi im bặt Mồ hôi tứa ra, ông cũng
ngã vật xuống phản.
Thôi ngủ đi!
Ừ!
Nhắm mắt lại và nhớ tới những đọt tre rung rinh, những tàu cau xanh và
mùi hoa cau ngọt lịm, nhớ tới cánh đồng lúa chín có những con cúm núm làm tổ
với những cái trứng màu nâu lốm đốm trắng rất dễ thương…
Ừ!
Nhớ tháng giêng xổ cổ nhơn, hát bội, nhớ tiếng hát của cô đào thương,
tiếng thét Trương Phi ở cầu Trường Bản và ngủ đi!
Ừ!
Đừng nhớ chi tới cái chân trắng của con đầm lai, đừng nhớ cái cách nó
nằm gác chân lên vách để cái váy rơi xuống, đừng nghe nó rên rỉ gầm gừ, đừng
nhớ tới tiếng nước chảy trong bụi chuối
Ừ!
Vẫn cứ nhớ à, nhớ như chạm như khắc vào tận xương da thì bắt chước hoà
thượng bỏ nhang lên đầu mà đốt, hay lấy dùi nhọn mà đâm vào háng như các cha
Vẫn không ngủ được…
Thì hãy đi ra vườn, ra ngoài đồng, ra bờ sông, đi thật xa cái hang tối
tăm này
Chi vậy?
Để quên
Quên?
Ừ
Quên gì?
Quên mùi mồ hôi nồng nồng, quên mùi nước bọt mặn mặn
Ừ!
Ngủ và ngủ!
(còn tiếp)
Khuất Đẩu