Tôi biết anh khi cùng đến trình diện “ học tập ” tại trường
Pétrus Ký ngày 24 tháng 6 năm 1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp khóa 1 Chánh
Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt. Sau khi ra trường anh bị động viên khóa
9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương Ngân Hàng,
tức Ngân hàng Quân Đội ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Anh là một thanh niên khỏe
mạnh, to cao, chưa lập gia đình. Vì cận thị nên lúc nào cũng mang kính trắng.
Trông anh ai cũng dễ nhận ra anh là một trí thức giàu tiềm năng, nhiều nghị lực.
Anh có người chú ruột là kỹ sư làm Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ của chế độ Cộng
Sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi biết nhiều về anh là do khi bị đưa vào trại tập trung ở
Thành Ông Năm , Hốc Môn, cũng như khi ra Phú Quốc tôi lúc nào cũng được “ biên
chế ” cùng tổ , đội với anh, chỗ nằm cũng sát bên anh, vì người ta căn cứ theo
thứ tự A, B, C của tên mỗi người khi lập danh sách. Tên anh rất lạ và dễ nhớ: “KHA
TƯ GIÁO".
Khi mới vào trại tập trung, ngoài giờ lao động khổ nhọc, các
“ cải tạo viên “ còn phải học mười (10) bài chánh trị. Sau mỗi bài học là những
buổi thảo luận trong tổ, đội. Mỗi ngưởi phải viết “bài thu họach” những gì mình
“ tiếp thu ” được sau những bài giảng của cán bộ tuyên truyền, được gọi là giáo
viên. Sau bài học đầu tiên đề tài thảo luận đưa ra là mọi người phải “ liên hệ
bản thân ”, xác định mình là người có tội với nhân dân, với “ cách mạng ”. Người
cầm súng thì giết bao nhiêu cách mạng trong từng trận đánh. Bác sĩ thì chữa trị
cho binh sĩ lành bệnh để đánh phá cách mạng như thế nào. Người làm ngân hàng (
như tôi và anh Kha Tư Giáo ) thì có tội phục vụ cho nền tài chánh, dùng tiền
nuôi dưỡng chiến tranh. Cảnh sát thì đàn áp nhân dân ra làm sao, vân vân…Trại của
chúng tôi đa số là sĩ quan biệt phái. Họ nói biệt phái là phái làm công tác đặc
biệt. Thí dụ giáo viên biệt phái là những người lãnh lương hai đầu, một bên là
quân đội, một bên là giáo dục, được phái về dạy học để đánh rớt học sinh, buộc
học sinh phải đi lính, biệt phái ngân hàng là sĩ quan được đưa về làm công tác
ngân hàng, kiếm thêm thu nhập cho người lính để có thêm sức cầm súng. Do đó, sĩ
quan biệt phái là những người có tội rất nặng với cách mạng và nhân dân hơn những
người khác. Anh KTG thì cho rằng anh và các bạn anh không ai là người có tội.
Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm
vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng bào ruột thịt trong Nam
cũng như ngoài Bắc. Riêng bản thân anh, sanh ra và lớn lên ở miền Nam, học hành
và làm công tác chuyên môn ngân hàng để sống và phục vụ cho đất nước thì sao gọi
là có tội. Lập trường anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn
thảm kịch của anh. Anh bị bắt làm kiểm điểm liên tục còn những người khác thì
cũng bị bắt phải “ giúp đỡ ” anh nhìn thấy được tội lỗi của mình để được cách mạng
và nhân dân khoan hồng. Càng kiểm điểm anh càng thấy mình là người vô tội. Bài
viết lúc đầu thì dài, về sau chỉ còn bốn chữ thật to chiếm hết trang giấy :
“TÔI KHÔNG CÓ TỘI”
Việt Cộng hỏi, anh trả lời những gì cần phải nói anh nói hết
rồi. Bạn bè trong đội thấy anh giữ lập trường như thế thì rất nguy hiểm cho anh
mà bạn bè cũng khổ. Vì sau giờ lao động cực nhọc đáng lẽ được nghỉ ngơi, lại phải
ngồi kiểm điểm với anh đến mỏi mệt, chán chường. Nhiều người trách anh sao
không biết “ nín thở qua sông ”, họ khuyên anh cứ viết đại vào giấy là mình có
tội một cách chung chung, miễn là thực tế không làm gì hại nước, hại dân là được.
Anh bảo như vậy là mắc lừa Cộng Sản và lương tâm không cho phép.
Khi tất cả cán bộ ở trại đều bất lực thì cán bộ cao cấp từ
Sài Gòn được cử xuống. Những người này tỏ ta có tay nghề hơn. Nghe đâu là sư
trưởng VĐG từng là thành viên của phái đoàn đàm phán Bắc Việt tham dự hội nghị
Paris năm 1973, cùng với một đại tá chánh ủy sư đoàn ( ?). Họ không trấn áp anh
mà tỏ ra lắng nghe và chịu đối thọai. Anh Giáo đã chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng
những câu hỏi đặt ra mà họ không trả lời được. Ngược lại, anh còn phản công, vạch
trần tội ác của họ. Từ vai một người tù, một tội nhân anh trờ thành một công tố
viên trước tòa, luận tội Việt Cộng. Bằng một giọng đầm ấm và trầm tĩnh, anh
Giáo nói :
- Chúng tôi là những người sanh ra và lớn lên ở miền Nam. Nhờ
hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục
khoa học, nhân bản và khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như
các anh có lý tưởng của các anh. Lý tưởng của các anh là dùng bạo lực để lật đổ
chánh phủ hợp hiến, hợp pháp Việt Nam Cộng Hòa để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản.
Lý tưởng của chúng tôi là bảo vệ Tự Do, Dân Chủ. Các anh từ miền Bắc vào xâm
lăng miền Nam, buộc lòng dân quân miền Nam phải cầm súng tự vệ. Chúng tôi có
câu “giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Chẳng lẽ một công dân cầm súng chống lại kẻ
thù để bảo vệ bà con mình, gia đình mình, tổ quốc mình thì có tội ?
Hai cán bộ Việt Cộng im lặng, chỉ gật gật cái đầu. Một lúc
sau, viên đại tá chính ủy lên tiếng :
- Các anh chỉ là tay sai đế quốc Mỹ. Ở đâu có Mỹ, có bom đạn
Mỹ thì chúng tôi đánh. Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…
Anh Giáo ngắt lời :
- Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao
giờ thay đổi, chớ gì ? Các anh chỉ biết lặp lại mà không biết gì về quốc tế
công pháp. Tôi nhắc lại, hiệp định Genève năm 1954 mà các anh đã ký ngày
20/7/1954 quy định từ vĩ tuyến 17 trở ra là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ
vĩ tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi, được Liên Hiệp Quốc
và quốc tế công nhận.
Tên sư trưởng phản ứng :
- Các anh là công cụ Đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất
nước. Còn chúng tôi đánh Mỹ là để thống nhất đất nước, mang lại Độc Lập cho Tổ
Quốc, Tự Do, Hạnh Phúc cho đồng bào.
Anh KTG : - Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu cùng thực
dân Pháp chia cắt đất nước bằng hiệp định Genève năm 1954. Chúng tôi không hề
ký vào hiệp định đó. Đồng minh chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có Đại Hàn,
Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi và tất cả quốc gia yêu chuộng hòa bình
trên thế giới. Các anh mới là tay sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa Cộng Sản
chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không riêng gì Việt
Nam.
Tên sư trưởng :
- Người Cộng Sản làm cách mạng là để giải phóng các dân tộc
khỏi áp bức, bóc lột mà đầu sỏ là đế quốc Mỹ để mang lại công bằng xã hội, ấm
no, hạnh phúc cho mọi người.
- Tôi thiết nghĩ những người cần được giải phóng là nhân dân
miền Bắc đang thiếu Tự Do, Dân Chủ, đang sống đời lầm than cơ cực. Chúng tôi
không cần các anh giải phóng.
Bất ngờ, tên đại tá chánh ủy đập tay xuống bàn cái rầm. Ly
nước trước mặt hắn ngã đổ tung tóe :
- Quân phản động !
Anh KTG vẫn giữ điềm tĩnh và im lặng. Thời gian trôi qua nặng
nề. Tên sư trưởng dịu giọng :
- Các anh ôm chân đế quốc, bị đầu độc bởi vật chất xa hoa và
văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa tư bản thối tha nên không nhìn thấy tội lỗi của
mình.
Bằng một giọng ôn tồn mà cương quyết, anh Giáo trả lời :
- Chúng tôi là người Việt quốc gia, không theo chủ nghĩa nào
cả. Chủ nghĩa chỉ là lý thuyết, là giáo điều do con người đặt ra để phục vụ cho
những mục tiêu chánh trị nhất định trong một giai đọan lịch sử nhất định. Đến
lúc nào đó nó sẽ bị đào thải do không theo kịp sự tiến hóa không ngừng của xã hội.
Còn chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là chủ nghĩa ngoại lai, duy vật và sai lầm khi chủ
trương vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, đi ngược lại bản chất con người,
ngược lại truyền thống duy tâm , trọng đạo và nền văn hóa cổ truyền của người
Việt. Nó quá tàn nhẫn và sai lầm khi chủ trương đấu tranh giai cấp bằng chuyên
chính vô sản. Tôi cho rằng nó sẽ không tồn tại lâu dài.
Thấy hai tên Việt Cộng vẫn im lặng, anh Giáo nói tiếp :
- Trong thời gian Tết Mậu Thân năm 1968 các anh đã đồng ý
hưu chiến để đồng bào an tâm vui đón ba ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Vậy mà
các anh lại tấn công vào các đô thị miền Nam, gieo rắc kinh hoàng, chết chóc
cho người dân vô tội. Khi các anh rút lui khỏi Huế lại nhẫn tâm sát hại, chôn sống
hàng ngàn dân lành. Các anh ký hiệp định Paris năm 1973 để chấm dứt chiến tranh
và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc nào các anh cũng giương cao ngọn cờ chống Mỹ
cứu nước như chánh nghĩa đấu tranh của mình, nhưng khi Mỹ rút đi rồi thì các
anh dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam. Vậy mà các anh nói được là hòa bình, hòa
giải dân tộc !
Nói tới đây anh Giáo ngừng lại trong giây phút, rồi bất ngờ
anh chỉ tay về phía hai cán bộ Việt Cộng :
- Vậy thì giữa chúng tôi và các anh, ai mới là người có tội
?
Bấy giờ thì hai tên Việt Cộng giận run, nét mặt đanh lại,
xám ngắt. Chúng không trả lời câu hỏi của anh Giáo mà đuổi anh ra khỏi phòng.
Bằng đủ mọi cách đấu tranh buộc anh Giáo nhận tội không kết
quả, bọn Việt Cộng để cho phong trào lắng xuống. Ai cũng hồi hộp, lo lắng,
không biết điều gì sẽ xảy đến cho anh KTG. Việt Cộng có thể mang anh ra bắn
công khai về tội phản động như họ đã từng làm ở trại này mà anh Giáo cũng như mọi
người trong trại đều biết. Thời gian này anh Giáo cho biết các em của anh đi học
tập cùng đợt đã được ông chú bảo lãnh về hết, trong đó có người em ở trại kế
bên, chỉ cách nhau một hàng rào dây thép gai. Ngày hai anh em chia tay nhau bên
hàng rào, anh Giáo dặn em hãy về lo cho mẹ và gia đình và đừng lo gì cho anh,
chắc là lâu lắm anh mới được về. Phần anh vẫn vui vẻ sống cùng anh em với tinh
thần bình thản, một đôi khi còn tiếu lâm, khôi hài nữa. Anh thường hay hát những
bài như Hà Nội, Niềm tin và Hy vọng, Anh lính quân bưu vui tính…Tôi hỏi sao
không hát những bản nhạc của mình, anh nói hãy cố giữ nội quy của họ để họ
không nói được mình. Anh Giáo là thế, lúc nào cũng tự trọng. Mười bài học chánh
trị rồi cũng qua. Chúng tôi có nhiều giờ rảnh hơn vì lúc này không còn phải ngồi
hàng giờ để thảo luận và “giúp đỡ” anh Giáo nữa. Nghĩ lại, Việt Cộng dùng từ cũng
ngộ, như từ “giúp đỡ ” được dùng trong trường hợp này. Chúng tôi xét thấy chẳng
có ai đủ tư cách để giúp đỡ anh Giáo, ngược lại rất nể trọng anh và được anh
giúp đỡ rất nhiều .
Vào những buổi chiều sau khi cơm nước xong, anh và tôi thường
hay đi bách bộ dưới tàng những cây sứ có hoa màu trắng, tỏa hương thơm ngát.
Chúng tôi thường trao đổi với nhau về chuyện ngân hàng và những vấn đề mà cả
hai cùng quan tâm.Thấy anh nhặt rất nhiều bông sứ, tôi hỏi:
- Chi vậy? - Mai mốt về tặng người yêu- Anh trả lời. - Chắc
là cô bạn rất thích hoa này? - Vì nó trắng tinh khiết và thơm dịu dàng. - Sợ tới
chừng đó nó sẽ phai màu đi – Tôi e ngại. - Không sao. Dù hoa có phai màu nhưng
chắc sẽ giữ được tình cảm của mình trong đó! - Anh lãng mạn quá – Tôi nhận xét.
Anh Giáo cười để lộ hai cái răng khểnh và một đồng tiền dưới
khóe miệng bên phải. Trông anh dễ thương hơn bao giờ hết!
Có lần trong lúc trò chuyện anh nói hiện nay anh ghét nhất
là cái khẩu hiệu “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”. Bản thân chủ nghĩa xã hội
không ra gì thì làm sao mà yêu cho được. Theo anh Giáo, yêu nước là yêu nước.
Không thể và không nên gán ghép nước Việt Nam với bất cứ một chủ nghĩa nào, dù
là Chủ Nghĩa Xã Hội, Cộng Sản hay Tư Bản. Nếu những chủ nghĩa này sụp đổ thì
không yêu nước nữa hay sao?
2. Đêm 21 tháng 6 năm 1976 chúng tôi được chở bằng Motolova
đến Tân Cảng xuống tàu há mồm 503 ra Phú Quốc. Chuyến đi thật kinh hoàng như địa
ngục trần gian mà con người có thể tưởng tượng được. Hàng ngàn người bị dồn
trên con tàu đóng kín cửa. Ăn uống, ói mửa, tiểu tiện chỉ có một chỗ, cho vào
thùng phuy. Khi tàu cập bến Phú Quốc có nhiều tù nhân bị xỉu, những người còn lại
đều kiệt sức. Tù nhân phải dùng chính những thùng phuy này để nấu cháo ăn ngay
trong đêm. Cho tới hôm nay là ba muơi bốn năm, hình ảnh hãi hùng này vẫn còn ám
ảnh tôi. Tôi ghi vào nhật ký:
Đau đớn thay những linh hồn cháy lửa
Suốt đêm ngày tắm rửa với mồ hôi
Với cao tay quờ quạng chút hơi người
Miệng gào thét những âm thanh khiếp đảm
Ở Phú Quốc ngoài việc trồng rau để “cải thiện ”bửa ăn, việc
lên rừng đốn củi là công tác thường xuyên và cực nhọc nhất. Nhiều anh em nghe lời
Việt Cộng, đi tìm vác những cây to để chứng tỏ mình là người “tiến bộ”. Anh
Giáo thì không. Lúc nào anh cũng ung dung, tự tại. Anh chỉ tìm vác những cây vừa
sức mình. Khi thấy cần phải nghỉ thì anh dừng lại nghỉ, mặc cho bọn vệ binh ôm
súng canh giữ cho tới lúc hết mệt anh mới đứng lên đi tiếp. Anh khuyên anh em
phải biết giữ gìn sức khỏe vì thời gian “học tập” hãy còn dài. Giờ đây ngồi ghi
lại những dòng này, cảnh tượng của năm nào lại hiện ra trước mặt: Trong một buổi
chiều ảm đạm, gió thổi ào ào. Một bên là biển, một bên là rừng. Đoàn tù cả trăm
người, dài hơn cây số, xếp hàng đôi, áo quần lôi thôi lếch thếch, vai vác những
thân cây nặng nề, mồ hôi lã chã, chậm chạp lê bước trên những con dốc ngoằng
ngoèo, trơn trợt. Nhiều người té lên té xuống. Hai bên và phía sau là những tên
vệ binh ôm súng AK thúc giục.Tới đầu một con dốc, anh Giáo đặt thân cây xuống,
ngồi trên đó nghỉ mệt. Khi một ngừời không đi nổi thì cả đoàn phải dừng lại chờ.
Điều này bọn cai tù Việt Cộng không muốn. Tên chỉ huy đến chỗ anh Giáo bắt phải
đứng lên đi tiếp Anh Giáo trả lời mệt quá nên phải nghỉ. Tên cán bộ không chịu.
Thế là cuộc đấu trí bắt đầu. Đến khi đuối lý, tên cán bộ rút khẩu K 54 ra khỏi
vỏ. Cả đoàn tù hồi hộp. Cả khu rừng như nín thở. Tên cán bộ đến bên anh ,
nghiêm sắc mặt :
- Anh có đứng lên không? - Tôi còn mệt. - Anh không chấp
hành lệnh phải không ? - Tôi đã nói là tôi còn mệt. Bao giờ hết mệt tôi sẽ đi.
Tên cán bộ hướng khẩu K54 về phía anh Giáo :
- Anh không đứng lên tôi bắn.
Anh Giáo vẫn ngồi bất động, lạnh lùng đáp :
- Anh cứ bắn đi!
Tên cán bộ Việt Cộng bóp cò. Hai tiếng nổ chát chúa vang động
cả khu rừng. Một bầy chim bay lên tán lọan, kêu quang quác…Nhiều người tù gục
xuống, ôm ngực:
- Lạy Chúa tôi.
Sự việc diễn ra chỉ trong vài giây ngắn ngủi nhưng đã nói
lên tất cả nét bi hùng của cuộc chiến sau “Hòa bình” mà kẻ có vũ khí trong tay
đã thua, đồng thời tính chất anh hùng của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa trong hoàn cảnh sa cơ thất thế vẫn sáng ngời, chói lọi. Người tù đã thắng!
Không biết vì sợ hãi hay run tay mà đường đạn nhắm vào anh
Giáo đã đi trượt một bên tai, làm bể nát phần thân cây mà anh Giáo đang ngồi
trên đó. Tôi thì sửng sốt, bàng hoàng, tưởng như mình vừa trải qua một giấc mơ,
vừa chứng kiến một cảnh chỉ có thể xảy ra trên màn ảnh, truyền hình!
Anh Giáo thường hay kể truyện Tam Quốc, truyện Thần Điêu Đại
Hiệp, truyện Tây Du Ký cho chúng tôi nghe. Hết truyện Tàu đến truyện tiếu lâm,
làm cho đời sống tù tội bớt căng thẳng. Sau một thời gian ở Phú Quốc, Việt Cộng
nhiều lần cho họp liên trại, phát động lại chiến dịch đấu tranh bắt anh Giáo nhận
tội, nhưng rồi không thể nào lay chuyển được tư tưởng của anh.
Riêng đám tù binh chúng tôi bấy giờ rất thoải mái chớ không
còn căng thẳng như lúc ở Hốc Môn. Người ta chỉ tổ chức đấu tranh với anh Giáo
cho có lệ. Những lần như thế chúng tôi khỏi phải lên rừng vác củi, được nghỉ
lao động, lại thích hơn.
Nhưng thời khắc định mệnh đã tới ! Một hôm trong lúc xếp
hàng điểm danh cuối ngày, cán bộ Việt Cộng ra lệnh cho anh Giáo phải bỏ kính
ra. Anh trình bày vì cận thị từ lâu nên không bỏ ra được. Chỉ chờ có thế, chúng
ra lệnh nhốt anh vào cũi sắt làm bằng dây thép gai, thứ mà chúng ta hay gọi là
chuồng cọp, diện tích rất hẹp, nằm không được mà ngồi cũng không được. Chuồng cọp
để giữa trời , không có mái che mưa che nắng. Ngay từ năm 1930, khi thành lập đảng
Cộng Sản, họ đã có chính sách “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc bốc tận rễ”. Anh
KTG là một trí thức mặc dầu thua trận vẫn cương quyết giữ vững lập trường chống
Cộng và quyết tâm bảo vệ chánh nghĩa Quốc Gia thì sẽ bị tiêu diệt là điều khó
tránh khỏi. Tiến sĩ toán ĐXH, cá nhân tôi và biết bao anh em khác cùng đội cũng
mang kính trắng giống như anh KTG mà không hề bị làm khó dễ. Điều này được giải
thích như thế nào đây? Mỗi ngày Việt Cộng chỉ cho anh Giáo nửa chén cơm lạt.
Anh lại tuyệt thực để đấu tranh và phản đối chính sách dã man và sự trả thù hèn
hạ của chúng. Ngoài tuyệt thực, anh Giáo còn dùng lời ca, tiếng hát để làm vũ
khí đấu tranh. Bài hát anh Giáo sử dụng là bài Đêm Nguyện Cầu, trong đó có những
câu:
“Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…
Nghẹn ngào cho non nước tôi, trăm ngàn ưu phiền…”
Có lẽ trong giờ phút đó, anh Giáo biết rằng mình đã ở vào thế
hoàn toàn tuyệt vọng và chỉ có thể nguyện cầu mà thôi. Đây là lần đầu tiên mà
có lẽ cũng là duy nhất trong đời, tôi nhìn thấy một người hát bằng tất cả linh
hồn như vậy. Anh Giáo thường cất tiếng hát của mình vào những đêm khuya thanh vắng.
Giọng hát của anh bay vào không gian, vào từng lán, trại, có lúc thật cảm xúc,
có lúc nghe rợn người như âm thanh phát ra từ cõi chết. Nhiều người nghe anh
hát thì ngủ không được, nhiều người đang ngủ thì bừng tỉnh dậy và khóc nức nở.
Bài Đêm Nguyện Cầu là của Lê- Minh- Bằng. Anh Bằng năm nay vẫn
còn sống ở Mỹ, chắc anh không ngờ sáng tác của anh lại có người sử dụng trong
hoàn cảnh đắng cay như vậy. Giờ đây mỗi lần nghe lại bài hát này tôi không cầm
được nước mắt vì nhớ tới người bạn của mình. Lời ca của anh Giáo rồi thì cũng yếu
dần và tôi không nhớ cho đến khi nào thì tắt lịm. Anh bị xuống sức rất nhanh. Từ
một thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng một tháng anh chỉ
còn là một bộ xương, duy có đôi mắt là còn tinh anh, sáng ngời, khiến cho nhiều
người không dám nhìn thẳng vào mắt anh, nhất là cán bộ Việt Cộng.
Ngày 20 tháng 6 năm 1977 Việt Cộng cho di chuyển một số tù
nhân từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu, tôi thì
đi đợt kế tiếp. Trong lúc di chuyển, anh Giáo bị còng tay, lúc nào cũng có vệ
binh ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi
gặp được anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay anh, bàn tay lạnh ngắt Lời nói
cuối cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật cho
gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào trong hơi thở rất yếu.
Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân. Sau này khi đi lao động tình cờ tôi gặp
được nấm mộ của anh, phủ đầy cỏ dại ở một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ có tấm
bảng gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa.
3. Tôi được tha về cuối năm 1977. Mặc dầu phải đương đầu với
biết bao khó khăn trong đời sống hàng ngày đối với một người vừa mới ra tù, tôi
vẫn để tâm đi tìm gia đình anh Kha Tư Giáo. Theo quyết định ra trại, tôi chỉ được
tạm trú ở nhà một tháng, sau đó phải chịu sự điều động của địa phương đi “Kinh
Tế Mới”. Nhờ may mắn, tôi xin được giấy chứng nhận là thuộc diện sử dụng vào
công việc của thành phố. Từ đó tôi xin được việc làm và dần dần ổn định được đời
sống. Tôi đã tìm khắp mọi nẻo đường, từ Sài Gòn vô Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận,
nhất là đường Huyền Trân Công Chúa, đường có hai chữ Huyền Trân mà tôi đã nghe
anh Giáo thốt ra trong lúc lâm chung. Nhưng con đường này toàn là biệt thự, có
vẻ là công sở hơn là nhà tư nhân. Tôi cứ đi qua, đi lại con đường này không biết
bao nhiêu lần. Khi tôi vào hỏi đều nhận được cái lắc đầu của chủ nhà. Cũng có lần
tôi cầu may lên Thành Ủy Sài Gòn ở đường Trương Định, quận Ba để hỏi thăm về đồng
chí KVC, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ nhưng tôi không qua được cổng bảo vệ vì
khi được hỏi quan hệ như thế nào với đồng chí bộ trưởng thì tôi trả lời quanh
co mà không chứng minh được gì cả.
Trong suốt hai mươi năm ở SàiGòn không tìm được gia đình anh
Giáo thì tôi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ, định cư ở Chicago vào cuối năm
1997. Sang Mỹ tôi vẫn tìm cách thực hiện nguyện vọng cuối cùng của người bạn
quá cố. Tôi cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết
gia đình họ Kha ở đâu không. Một lần nữa tôi không có tin vui. Điều tôi làm được
là cuối tháng 12 năm 2001 tôi viết lại câu chuyện về anh Kha Tư Giáo, đặt tựa đề
Người Không Nhận Tội và gửi cho tờ Việt Báo ở California, mục “ Viết về nước Mỹ
”. Tôi chọn mục này vì đây là diễn đàn có số độc giả rất lớn, ở khắp nơi trên
thế giới, biết đâu gia đình anh Giáo sẽ đọc được. Hy vọng của tôi rất mong manh
vì bài của tôi không nói gì về nước Mỹ mà chỉ viết về người bạn của mình đã ngã
gục trong tù Cộng Sản. Vậy mà không ngờ, bài viết cũng được chọn đăng và được
phổ biến trên hệ thống toàn cầu. Tôi lại hồi hộp chờ đợi bài viết của mình đến
với gia đình anh KTG. Ngày 23 tháng 1 năm 2002 tôi nhận được email của Ban Chủ
Nhiệm Việt Báo chuyển cho cùng với bức điện thư của anh KTC, em của anh KTG gửi
từ Autin, Texas, báo tin gia đình anh đã đọc được bài viết của tôi. Bức điện
thư ngắn ngủi nhưng đã gây cho tôi một cảm xúc mạnh, một niềm vui lớn. Bạn hãy
tưởng tượng cũng biết được là tôi hạnh phúc như thế nào khi nỗi niềm đã được giải
tỏa, khi ước mơ 25 năm đã thực hiện được, nhất là ước mơ đó là của người quá cố,
nên có tính cách linh thiêng.
Chiều chủ nhật 27 tháng 1 năm 2002, tôi đang ở nhà thì nhận
được điện thọai từ Texas :
- Hello ! Tôi là KHT, em ruột anh Kha Tư Giáo. Xin lỗi có phải…
- Tôi, Duy Nhân đây.
- Chào anh Duy Nhân ! Có phải anh là tác gỉa bài viết Người
Không Nhân Tội?
- Tôi đây chị.
- Hân hạnh được nói chuyện với anh. Gia đình tôi đọc được
bài viết của anh trên Internet. Không ngờ sự thật như vậy..
Tới đây thì tiếng nói đứt quãng. Tôi nghe được cả sự nghẹn
ngào bên kia đầu dây. Chị HT quá xúc động. Tôi cũng vậy. Tôi giữ được im lặng
trong một phút, rồi nói :
- Đây là giây phút mà tôi chờ đợi suốt hai mươi lăm năm nay.
- Gia đình chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.
- Tôi chỉ làm nhiệm vụ đối với anh Giáo, một người bạn của
tôi.
- Bài viết của anh nói lên được nhiều điều. Qua đó, gia đình
tôi hiểu rõ sự thật về anh Giáo, về Cộng Sản mà nhiều cán bộ cao cấp theo Cộng
Sản suốt đời cũng không hiểu được.
Tôi lại nghe tiếng nức nở bên kia đầu dây. Chị HT lại khóc.
Sau đó chị kể cho tôi nghe những sự kiện tiếp theo cái chết của anh Giáo. Chín
tháng sau khi anh Giáo chết thì Việt Cộng mới báo tin về gia đình, Họ có hoàn lại
cho gia đình một số vật dụng cá nhân, trong đó có cặp kính trắng. Bây giờ tới
phiên tôi đau lòng và xót xa khi nghe nhắc tới cặp kính trắng. Đó chứng tích của
sự trả thù hèn mọn và một chính sách sai lầm đối với trí thức, đối với người
thuộc chế độ cũ mà tôi là nhân chứng từ đầu tới cuối. Khi gia đình nhận được giấy
báo tử của anh Giáo thì mẹ và các em đi gặp cán bộ có chức quyền để hỏi c. Họ
nói anh Giáo nhịn ăn cho tới chết. Mẹ anh hỏi lý do gì khiến anh Giáo phải tuyệt
thực, anh Giáo có tội gì phải biệt giam, đề nghị cho xin bản án hoặc biên bản về
cái chết của anh Giáo. Việt Cộng không trả lời. Mặc dầu uất ức nhưng mẹ anh cố
kiềm nước mắt không bật khóc trước mặt Việt Cộng. Đến khi mẹ anh Giáo đề nghị
được dẫn đi tìm mộ thì bọn Việt Cộng lại tỏ ra khó chịu và đòi hối lộ. Cuối
cùng, bà và các em phải đi tìm một mình và dĩ nhiên là không thể nào tìm được !
Vì quá đau buồn, mẹ anh Giáo qua đời sau đó ít lâu. Khi tôi nhắc đến tên Huyền
Trân thì chị nói đó không phải là tên đường mà là tên của chị. Có lẽ trong lúc
lâm chung anh Giáo gọi tên chị mà tôi tưởng là tên đường. Chị HT nói cho tới
bây giờ gia đình chị không ai biết anh Giáo nằm ở đâu. Tôi thì biết rất rõ.
Ngôi mộ quay đề về hướng Đông ở một góc sân banh. Trên mộ có xuất hiện một cây
hoa dại có bông rất lạ. Ngày xưa mỗi lần đi lao động về ngang qua ngôi mộ tôi đề
bứt vài bông đem về cắm trong lọ mà tưởng tượng anh Giáo như còn sống. Anh Giáo
đã chết một cách vô danh mà anh hùng như loài hoa kia đã dũng cảm vươn lên giữa
khô cằn và gai góc.
Sau chi HT thì anh KTH, em kế anh Giáo từ bên Pháp đã liên lạc
với tôi bằng thư và nói chuyện qua điện thọai. Anh cho biết rõ hơn về tính tình
ngay thẳng, cương trực của anh Giáo. Anh H tỏ ra rất hãnh diện và tự hào về người
anh của mình, đã chọn cái chết mà không phải ai cũng làm được. Anh đã thanh thản
đi vào trang sử bi hùng của Quân Lực VNCH và dân tộc.
Anh Kha Tư Giáo ơi ! Ở một nơi nào đó chắc là anh đã mãn
nguyện vì ước muốn sau cùng của anh đã được thực hiện, dầu có muộn màng. Bài mà
tôi viết về anh người ta đã lấy dựng thành kịch (1), cho phổ biến, trình chiếu
khắp nơi mà không xin phép tác giả. Thôi thì hãy ngậm cười mà tha thứ cho họ,
tha thứ tất cả. Tha thứ cho những kẻ đã hành hạ anh, những kẻ bỏ đói anh, tha
thứ luôn cho cái chuồng cọp nhốt anh đêm ngày và cái còng sắt siết chặt tay anh
rớm máu ! Bây giờ đã là ba mươi bốn năm, vậy mà tôi tưởng như mới ngày nào…Lịch
sử vẫn đang ghi nhận những sự thay đổi, những bước tiếp diễn lạnh lùng của nó.
Có những điều anh nhận định, anh mong mỏi bây giờ đã là sự thật, ngọai trừ Tự
Do và Hạnh Phúc cho mọi người. Gia đình anh có nhiều thay đổi: Mẹ anh đã qua đời,
ông chú anh cũng đã ra đi. Người ta dùng tên chú anh để đặt tên một con đường
nhỏ ở Thủ Đức nhưng lại viết sai chính tả ! Anh còn lại những người thân nhưng
đã phân tán mỗi người mỗi ngã. Có người còn ở Việt Nam, có người ở Pháp, ở Mỹ…Tôi
vẫn đang liên lạc với họ, vẫn nghe tiếng họ nói mà chưa một lần gặp mặt. Vậy mà
cảm thấy như đã thân quen tự thuở nào. Về phần tôi, khi nào điều kiện cho phép
tôi sẽ về lại Việt Nam. Tôi sẽ đi tìm ngôi mộ của anh, sẽ thắp lên đó một nén
hương và trồng bên cạnh đó một cây sứ có bông màu trắng.
Duy Nhân