Sợ là một ý thức hiển nhiên gắn liền với số phận con người. Sợ sống, sợ già,
sợ đau, sợ chết, nói chung, sợ tất cả những hiện tượng mà con người luôn phải
đối đầu nhưng chưa giải thích được bản chất của chúng.
Tuy nhiên, dưới chế độ CS sợ là một căn bịnh xã hội và bịnh phát cơn khi có
một nguồn kích động xảy ra. Giống như ánh sáng tuy không phải là lý do của bịnh
đau đầu kinh niên nhưng mỗi khi bịnh nhân bước vào căn phòng quá sáng hay đèn
bật sáng bất ngờ, cơn nhức đầu lại bừng bừng nổi dậy.
Trong nước, từ một em bé tiểu học cho đến một cán bộ đảng cao cấp có lập
trường chính trị hồng như ráng trời chiều đều có ít nhiều vi khuẩn sợ trong
người. Từ những bài tập viết văn cho đến các tiểu luận, biên khảo vẫn nặng phần
trích dẫn. Thậm chí trong một bài viết vỏn vẹn hai trang đã hơn một nửa là
trích dẫn những câu kinh điển do các “lãnh tụ anh minh” CS nào đó để lại. Trích
dẫn không phải để chứng minh cho cái đúng hay che giấu cái dốt của mình mà quan
trọng hơn là để an tâm.
Trong buổi họp, nếu ai lên tiếng phàn nàn, phản đối trước một đề nghị nào
đó, chủ tọa chỉ cần dọa “một lần đề nghị đó cũng chính là ước vọng của lãnh tụ
anh minh”, tức khắc sự phàn nàn dù không ai khuyên cũng xì nhanh hơn bong bóng.
Thói quen dựa hơi những người được trao cho quyền “bất khả xâm phạm” trong xã
hội, dù còn sống hay đã chết, cũng đều từ sự sợ hãi mà ra. Thói quen đó đã theo
thời gian phát triển thành một cố tật trong sinh hoạt văn hóa xã hội tại Việt
Nam.
Ngoài nịnh bợ, bịnh sợ hãi còn gây ra biến chứng trầm trọng khác là đổ thừa.
Trong các bài tự phê bình chính thức hay không chính thức, những lý do khách
quan bao giờ cũng nhiều hơn chủ quan. Chậm tiến là vì, nghèo đói là vì, tham
nhũng là vì, tuyệt nhiên không có cái vì nào trong số đó là lỗi của mình.
Trong lúc sự sợ hãi là một phần của số phận con người như vừa trình bày, nó
chỉ trở nên tai họa tập thể khi mức sợ hãi phát triển thành một bịnh trạng của
cả xã hội, tồn tại như một phần của đời sống văn hóa, gây nên những phản động lực
cản trở sự phát triển tinh thần của con người và ngăn chận sự thăng tiến của xã
hội.
Trong lịch sử của nhân loại thời cận đại, xã hội Liên Xô dưới thời Stalin và
Bắc Hàn trong thời Kim Nhật Thành, có thể được xem là những nơi căn bệnh sợ hãi
đã bị xã hội hóa đến mức độ gần như toàn diện.
Dưới chế độ toàn trị của Stalin, con người thấy chung quanh họ không có ai
là bạn mà chỉ toàn là kẻ thù, kể cả cha mẹ, vợ chồng, anh em, bè bạn. Đảng có
kẻ thù của đảng, nhà nước có kẻ thù của nhà nước, nhân dân có kẻ thù của nhân
dân. Chủ trương trồng cấy vi khuẩn sợ hãi vào toàn bộ xã hội Liên Xô của Stalin
thành công đến mức có lần y cho rằng một ngày các cơ quan an ninh để kiểm soát
dân chúng có thể không còn cần thiết. Lý do Stalin tự tin như thế bởi vì sợ hãi
đã có thể tự quản được trong chính mỗi con người.
Bệnh trạng sợ hãi tại Bắc Hàn so với Liên Xô còn trầm trọng hơn vì nhiều nơi
tại Bắc Hàn con người được thuần hóa đến mức không còn biết sợ là gì. Nhận thức
của con người họ phụ thuộc hoàn toàn vào một trung tâm chỉ đạo ý thức được điều
khiển từ bên ngoài.
Nhiều người dân Bắc Hàn hoàn toàn mất ý niệm không gian và thời gian. Ngày
tháng và nơi chốn đã bị đổi thay sau khi Kim Nhật Thành xóa bỏ niên lịch AD
đang được dùng trên thế giới và thay vào đó bằng lịch Juche lấy năm sinh của họ
Kim làm chuẩn. Ví dụ, năm 2000 là năm cuối cùng của thiên niên kỷ đối với phần
lớn thế giới nhưng tại Bắc Hàn chỉ mới là năm Juche 99.
Nếu lý luận theo quan điểm kinh tế của Mác, khi mức độ xã hội hóa của nền
kinh tế đạt đến mức toàn diện, chế độ kinh tế tất yếu sẽ biến thái, thì sự biến
thái của các xã hội khống chế bằng nỗi lo sợ toàn diện như trường hợp Bắc Hàn,
không có gì khác hơn là mang con người trở về thời nguyên thủy.
Cũng may, con người có lý trí và dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã đến đâu nghị
lực con người vẫn âm thầm phản kháng và tìm mọi cách vươn lên. Phong trào chống
sợ và vươn lên như thế đang lan rộng tại Việt Nam. Đó là một tin mừng, bởi vì
bịnh sợ càng thuyên giảm nhanh bao nhiêu, ngày tự do cho đất nước sẽ đến sớm
bấy nhiêu.
Trần Trung Đạo