04 October 2016

MÙA VU LAN, ĐỌC LẠI HỒI KÍ TÙ - Trịnh Y Thư


Mùa Vu Lan này, có chút thời gian thư thả, tôi lại kệ sách lấy xuống hai cuốn sách cũ ngồi đọc. Đó là hai cuốn hồi kí tù: Ánh sáng và bóng tối của nhà văn Hoàng Liên và Đại học máu của nhà văn Hà Thúc Sinh. Mặc dù đã hơn hai mươi năm trôi qua, khi đọc lại hai tác phẩm với nội dung phơi trần sự thật về chế độ lao tù Cộng sản từng gây nhiều chấn động lúc xuất hiện lần đầu, tôi vẫn thấy có cái gì rất mới hiển hiện trên từng trang sách. Hai mươi năm lẻ, từ khi hai cuốn sách ra đời, là thời gian khá dài để hàn gắn nhiều vết thương, ngoại trừ vết thương của những người tù trong cuộc mà tôi biết họ phải gánh chịu cho đến chặng cuối con đường họ đi. Nhưng, dù sao chăng nữa, tôi chẳng thể nào chối bỏ được giá trị văn học cũng như lịch sử của hai cuốn sách, cảm xúc cũ mới cứ thế tràn về lây lan tâm khảm tôi.
Điều khá hiển nhiên, khi đọc hai cuốn sách này cùng lúc, là sự tương phản trong phong cách văn học, trong thể cách trần thuật và nhất là trong tâm cảnh được thể hiện của tác giả. Chính vì thế hiệu ứng của mỗi cuốn sách nơi người đọc không giống nhau. Đều nói về các trại giam tù “cải tạo”, đều nói về sự đối xử tàn bạo của chế độ tù, đều nói về những sự kiện nghịch lí, thậm chí phi lí, phi nhân của đời sống tù nhân cải tạo, nhưng một bên là sự chịu đựng thầm lặng, cố hết sức nuốt xuống tất cả mọi tủi hận đắng cay, cố bám víu lấy hi vọng, vẫn tìm ra cái đẹp—chiếc lá đu đủ nửa vàng nửa xanh nổi đường gân trông đẹp đẽ như một bức tranh, người tù trân trọng ghim nó lên tường căn xà lim bẩn thỉu rồi lui lại ngắm nhìn—trong lúc chờ đợi ngày về; còn một bên là sự phẫn nộ, không, đúng hơn, là cơn uất hận bốc cháy bừng bừng và uất khí không có chỗ tiêu tán quay vào xâu xé tâm tư, thể xác người tù đến độ cả tâm tư lẫn thể xác hắn rách bươm. Thú thật, trong lúc đọc cuốn Ánh sáng và bóng tối, thần thái tôi khá là nhẹ nhàng, thanh thản; còn với cuốn Đại học máu, từ trang đầu đến trang cuối, lúc nào những sợi dây thần kinh trong não bộ tôi cũng căng thẳng tưởng chừng như sắp đứt.

Tuy thế, sau khi gấp lại hai cuốn sách, tôi thấy sự tương phản đó chỉ có tính cách phiến diện. Nó mỏng manh như lớp băng mới đóng trên mặt nước hồ một ngày chớm đông nơi xứ tuyết. Đồng ý, mỗi tình huống, mỗi nhân cách, mỗi cảnh ngộ, mỗi khác, nhưng vẫn có cái gì sâu sắc, nhất quán hơn, thắt chặt hai cuốn sách vào nhau. Sự thật là bên dưới lớp vỏ ngoài có vẻ như khác biệt, các hồi kí tù đều mang chung một biểu tượng chắc nịch: đời sống là một thảm kịch không lối thoát. Trong đời sống tù, thảm kịch ấy được khuếch đại lên nhiều nghìn lần, trong một chiều kích thu nhỏ nhiều nghìn lần, và chúng ta nhìn vào, chứng kiến tấn bi kịch phi lí phơi bày một cách khốc liệt, đậm đặc, dưới dạng thể trần trụi, dơ bẩn nhất. Cái xấu và cái ác thi nhau lấn át cái đẹp và cái tốt lành. Kì thực, đời sống chúng ta đang sống là một nghịch lí hết thuốc chữa, một nghịch lí chung cuộc, nói theo ngôn ngữ của nhà văn Milan Kundera.
Thế kỉ XX thường được mệnh danh là thời hiện đại với tất cả những phát triển tột bực của khoa học, kĩ thuật; của tư tưởng, học thuật, nghệ thuật các ngành. Nhưng tôi tự hỏi những bứt phá đó đã đem lại gì cho con người ngoài hai cuộc thế chiến, một Lò Thiêu và hàng chục những xung đột đẫm máu lớn nhỏ khác trên thế giới khiến “đống xương Vô Định” không thể gọi là đã “cao bằng đầu” nữa mà phải gọi là đã “cao bằng đỉnh ngọn Everest.” Hãy nhìn vào nước Nga, riêng nước Nga thôi, dưới thời Sô-viết, từ triều đại Lenin, sang triều đại Stalin cho đến thời điểm gần đây, có bao nhiêu người chết vì bị bắt bớ, giam hãm, tù đày, thủ tiêu? Khó có thể tìm ra con số chính xác, nhưng từ kết tính phỏng định dựa trên những tài liệu khả tín do sử gia Nga Roy Medvedev công bố năm 1988 thì người ta biết có khoảng 40 triệu công dân Nga bị bắt giam và 50 phần trăm những người bị bắt ấy, tức 20 triệu, không bao giờ thấy mặt trở về nhà. Nếu cộng con số đó với số người thiệt mạng trong thế chiến II, gồm 16 triệu lính và 11 triệu dân, thì chỉ trong khoảng thời gian già nửa thế kỉ, nước Nga thiệt mất 47 triệu công dân! Nếu mỗi ngày 1.000 người Nga bị đem ra hành quyết, đều đặn ngày này qua ngày khác, thì phải mất 130 năm mới giết hết chừng đó con người! Quả là kinh khiếp!
Nhắc đến thế chiến II, tôi không khỏi thắc mắc là hai ba trăm năm nữa, khi nhìn lại quá khứ, liệu các sử gia lúc đó đã hết điên đầu chưa với câu hỏi tại sao nước Đức, một quốc gia từng cống hiến cho nhân loại những bậc vĩ nhân như Goethe, Bach, Beethoven, Planck . . . lại có thể đẻ ra một con quái vật như Adolph Hitler. Và, chắc họ lại càng điên đầu hơn với hành động điên cuồng không thể giải thích nổi từ bất kì góc độ nào của một con quái vật khác tên Pol Pot. Có lẽ họ chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm rồi nhìn nhau gọi thế kỉ XX là một thế kỉ điên khùng. Chưa bao giờ thế giới lại có quá nhiều những Johann Moritz của “Giờ thứ 25” như thế!
Con người không va chạm với con người khác mà với những thế lực điên khùng, những thế lực vô hình nhưng vô cùng mạnh mẽ. Con người cảm thấy như tê cứng, bất lực trước những thế lực đó. Chúng chế ngự, kiểm soát, toả chiết mọi hành vi và tư tưởng của hắn. Chúng phủ trùm lên đời sống hắn. Franz Kafka đã nhìn ra viễn ảnh đen tối này từ những năm đầu của thế kỉ XX và chí ít nó được biểu hiện trong ba tác phẩm tiểu thuyết Amerika,  Vụ xử ánToà lâu đài của ông. Viễn ảnh đó tái hiện, một cách hiện thực hơn, rõ rệt hơn qua ẩn dụ, trong những tác phẩm của nhà văn người Anh George Orwell như cuốn 1984 (viết năm 1948) và Trại súc vật. Đừng bảo chúng ta không được cảnh báo. Khả năng tiên tri không hẳn chỉ thi ca mới có, nó còn hiện hữu trong tiểu thuyết.
Ánh sáng và bóng tối—Đại học máu. Những nhan đề sách nghe sao bi thương quá. Bi phẫn nữa. Bi thương và bi phẫn như đoạn sử vừa qua trang của dân tộc.
Đã qua nhưng không thể quên. Bởi nếu chúng ta quên nó, nó sẽ tái diễn với mức độ điên cuồng hơn.
Đọc lại hai cuốn sách, tôi không thấy chán ghét hay khinh bỉ ai nữa. Tất cả đều là nạn nhân, nạn nhân của những thế lực điên khùng trong một kỉ nguyên điên khùng. Giờ đây, tôi rút ra từ hai tập sách rất quý này một điều mà trong tiếng Anh người ta gọi là “human spirit.”
Human spirit. Bạn có thể dịch cụm từ này sang tiếng Việt là tinh thần, hoặc khí thế, hoặc sự can trường của con người. Tất cả đều đúng nghĩa. Đúng nghĩa nhưng chưa đủ nghĩa, theo tôi.
Khi điểm một cuốn sách (hay một cuốn phim) xuất sắc, thuật lại chuyện con người hay nhóm người nào đó, bằng tất cả lòng can đảm cộng với sức mạnh tinh thần cũng như thể xác của mình, vượt qua mọi nghịch cảnh để đạt đến ước nguyện sau cùng (hoặc giả cũng có thể hắn ta bỏ mình sau những cố gắng tuyệt vọng), nhà điểm sách (hay điểm phim) thường buông một câu kết luận có tính ước lệ đại loại như cuốn sách (hay cuốn phim) này đã nói lên được cái “human spirit.” Ngay trong lời nhà xuất bản in ở bìa sau cuốn Một ngày trong đời của Ivan Denisovich của nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn, một tác phẩm tiểu thuyết nhưng nội dung không khác lắm so với hai cuốn hồi kí của hai nhà văn Việt Nam, tôi cũng thấy nhắc đến cụm từ “human spirit” này. Với tôi, “human spirit” không hẳn chỉ đơn thuần là tinh thần, khí thế hay sự can trường của con người, nó còn là biểu hiệu cho “lòng khao khát muốn sống và được sống như con người”.
Sống như con người có dễ không? Tôi nghĩ nó không dễ chút nào. Không ai biết điều đó rõ hơn nhà thơ Boris Pasternak của nước Nga. Chương cuối trong tác phẩm tiểu thuyết Dr. Zhivago của ông là 24 bài thơ bất hủ, mà câu cuối trong bài thơ Hamlet là một châm ngôn: “Sống cho trọn kiếp nào phải trò trẻ con.” Yurii, bản thân chàng đã phải trải qua biết bao cảnh khổ—hết cách mạng đến nội chiến—nhưng cuối cùng khi về lại Moskva thì chàng mất hết. Ngôi nhà xưa không còn và vợ con chàng đã di tản ra nước ngoài trước đó. Còn Lara thì sao? Nào ai biết được chuyện gì xảy đến cho nàng sau khi nàng bị ép buộc đi theo lão già Komarovski khốn khiếp và sau đó, cùng với đứa con gái nhỏ, lê lết hết trại giam này đến trại giam kia nơi vùng Siberia tuyết giá? Họ là những con người sống giữa một kỉ nguyên điên khùng và bởi thế mặc dù ước nguyện duy nhất của họ chỉ là xin được sống như con người, một ước nguyện cực kì giản dị và chính đáng, nhưng chẳng ai thèm đoái hoài, chẳng ai thèm quan tâm. Họ cất tiếng kêu nhưng ai là kẻ lắng nghe tiếng kêu của họ khi chung quanh là bốn bức tường kín như bưng của căn xà lim chật hẹp, nằm im lìm thoi thóp bên trong hàng rào kẽm gai chất chồng lớp lớp với những họng súng đen ngòm từ trên tháp canh lăm lăm chĩa xuống và xa hơn nữa, ngoài kia là núi rừng trùng điệp. Chỉ còn tiếng thở dài giữa đêm dài yên ắng đến rùng rợn của một kỉ nguyên tối đen bi thảm, tiếng thở dài thay lời cầu nguyện cho linh hồn nào đó vừa từ giã cõi đời.
Tôi nhìn thấy hình ảnh của “Dr. Zhivago”, của người tù Ivan Denisovich Shukhov—ảm đạm, thê lương trong buổi hoàng hôn đen xám của nhân loại—xuyên qua hai cuốn hồi kí tù của hai nhà văn Việt Nam: Hoàng Liên trong Ánh sáng và bóng tối, và Hà Thúc Sinh trong Đại học máu.

Trịnh Y Thư