Thương xá Tax vừa bị xóa sổ. Vậy là thêm một mảng Sài Gòn xưa bị vỡ vụn. Dân
Sài Gòn chúng ta ai cũng tiếc nuối trước sự vong thân của thành phố thân yêu.
Sài Gòn đang bị dày vò, không còn là Sài Gòn của chúng ta. Nhớ về Sài Gòn,
chúng ta có nhiều thứ để vịn vào. Nhưng có một thứ không thuộc về Sài Gòn mà mỗi
khi nhớ về chúng ta ngẩn ngơ. Trong bài “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”, nhà thơ
Du Tử Lê nhớ lung tung: Thị Nghè, Hàng Xanh, Trương Minh Giảng. Toàn những địa
danh nẫu lòng. Nhưng nhiều người, trong đó có tôi, nhớ da diết như nhà thơ: Nhớ
nghĩa trang quê hương bạn bè / Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường. Pho tượng
lính ngồi buồn rầu ngay trước nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa. Pho tượng đầy biểu
tượng này đã làm bất tử tên người khai sanh ra nó: điêu khắc gia Nguyễn Thanh
Thu.
Sự ra đời của
pho tượng lính, nhiều người đã nói, chúng ta đã nghe nhiều. Tôi nghĩ chẳng cần
nhắc lại. Nhưng chuyện về sự hình thành pho tượng bất tử này, dù nghe nhiều,
nhưng mỗi người nói mỗi khác nên chuyện kể cứ như…huyền thoại! Tôi cố tìm xem
câu chuyện thực sự ra sao nên kiếm đọc được những gì do chính tác giả bức tượng
nói trong bài phỏng vấn của nhà truyền thông Lê Xuân Trường.
Khi được Tổng
Thống Nguyễn văn Thiệu giao nhiệm vụ thực hiện sơ đồ nghĩa trang Biên Hòa trong
đó có bức tượng mà theo gợi ý của ông Thiệu thì là cảnh chiến trường, ông Thu
đã tới nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây để tận mắt chứng kiến cảnh chuyển
xác từ chiến trường về, cảnh khóc lóc của vợ con tử sĩ, cảnh an táng. Ông quan
sát trong suốt một tuần lễ. “Tôi ở đó được sáu ngày như vậy, khi ở được sáu
ngày rồi , ngày mai nữa là hết ngày, đến ngày phải trình Tổng Thống, cho nên đến
buổi trưa thứ sáu, đây là câu chuyện thật, tôi cứ nôn nóng như vậy. Trưa thứ
sáu thì tôi từ nghĩa trang Quân Ðội Hạnh Thông Tây, tôi về Gò Vấp. Ở vùng Gò Vấp,
nắng quá, tôi mới vô kiếm nước uống. Tôi quẹo đại vào một cái quán gần căn phố.
Vô tình, tôi kêu một ly nước chanh uống, bỗng nhiên, tôi thấy một anh lính Nhảy
Dù, ảnh vô đó từ trước, ảnh cũng từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây về trước đó. Khi
tôi bước vô thì tôi dòm qua ảnh, thấy ảnh đã uống đâu bốn năm chai bia rồi, thì
thôi, tôi cũng không nói gì. Nhưng có một điều lạ, tôi thấy ảnh đang nói chuyện
với cái ly, ảnh là binh chủng Nhảy Dù, ảnh để cái nón nhảy dù trên cái bàn, mặc
áo nhảy dù đàng hoàng, ảnh đang uống và đang buồn, đang nhớ bạn. Một ly ảnh uống,
một ly ảnh cúng, ảnh rót bia vào cái ly cúng đó, rồi ảnh nói chuyện với cái ly
như có người bạn trước mặt ảnh vậy, ảnh cằn nhằn, ảnh đau đớn cho người bạn của
ảnh đã mất. Khi tôi dòm thấy được cái hình ảnh mà ảnh vừa nói vừa gục đầu xuống
bàn, vừa khổ sở với cái ly đó, ảnh vừa uống vừa cúng. Tôi chờ một chút nữa rồi
bước qua làm quen. Tôi cầm cái ly nước chanh, bước qua, tôi đứng kề ảnh, bên
cái bàn của ảnh, tôi xin phép ảnh: “Anh à, tôi muốn ngồi kề với anh, uống với
anh được không? Thấy anh buồn, tôi muốn ngồi với anh”.Tôi thấy ảnh không trả lời
tui, ảnh ngồi gục trên cái bàn, ảnh hất cái mặt lên, có vẻ như không bằng lòng
khi có người thứ hai quấy rầy ảnh… Mặt tôi hơi sượng, mấy cô trong quầy cười
khúc khích, nãy giờ, cái anh nầy nói chuyện với cái ly không, mà bây giờ có
thêm một thằng điên qua nói chuyện với ảnh, mấy cô chắc nghĩ như vậy, thấy mấy
cô cười khúc khích với nhau. Nhưng mà trời thương, tôi có hỏi giấy tờ của ảnh, ảnh
gục cái đầu xuống, tôi đứng trơ trẽn ở đó. Bỗng nhiên, ảnh móc ở túi sau, ảnh
móc giấy tờ, ảnh đưa cho tôi. Tôi đâu có phải Quân Cảnh mà hỏi giấy tờ của ảnh,
thế mà ảnh đưa cho tôi. Tôi cầm cái bóp rồi trở về cái bàn của tôi, tôi lấy giấy
tờ ra hết. Tôi ghi tên của ảnh, ảnh là Võ văn Hai, hạ sĩ Võ văn Hai, tôi nhớ rõ
như vậy. Ở tiểu đoàn nào tôi quên rồi, tôi ghi hết cái KBC. Xong rồi, tôi đem
cái giấy đến trả lại, ảnh cũng không cần biết nữa, lấy bỏ túi thôi,không nhìn
tôi. Tôi trở về bàn, tôi ngồi để nhìn một chút xíu nữa. Trưa đó tôi về, dĩ
nhiên là ảnh còn ngồi đó, tôi lo đi về, tên tuổi của ảnh tôi còn để đây”.
Buổi
sáng bữa vào trình sơ đồ tượng, ông được Đại Tá Võ văn Cầm, Chánh Văn Phòng, tiếp
trong khi chờ gặp ông Thiệu. Trong lúc ngồi đợi, ông Nguyễn Thanh Thu sực
nghĩ tại sao không vẽ cảnh anh hạ sĩ Hai ngồi uống bia? Ông vội phác họa trên mặt
sau miếng giấy bạc trong bao thuốc. Khi vào trình Tổng Thống, ông trải các bức
vẽ cảnh chiến trường trên sàn nhà. Khi được ông Thiệu hỏi ý kiến, ông đã rụt rè
đưa ra bức phác họa trên giấy trong bao thuốc lá. Ông Thiệu ưng ý và muốn ông vẽ
lớn ra ngay. Ông ra ngoài xin Đại Tá Cầm vật liệu để vẽ. Khi đó ông Thu mới thấy
cần vẽ chi tiết hơn. Ông ngỏ ý cần người mẫu. Đại Tá cầm bối rối hỏi: “Tôi được
không?”. Tới lượt ông Thu bối rối: áo quần láng coóng, tóc tai mượt mà đâu có
giống lính chiến. Nhưng rồi ông Đại Tá “hóa trang” với súng ống, nịt đạn,
bi-đông nước, nón sắt. Ông Thu phác họa xong, Tổng Thống Thiệu ký chấp thuận.
Ông Thu có ba tháng để hoàn tất tượng.
Ông tìm tới
đơn vị của anh Võ văn Hai để xin anh về làm mẫu. Thiếu Tá chỉ huy khoái chí đề
nghị: “Ông yêu cầu gặp anh Hai nhưng tôi thấy chưa hay đâu. Tôi nói thật với
anh, tôi cho anh một Đại Đội, mặc sức mà chọn. Nhiều thằng một thước bảy, một thước
tám thước chín, mề đay đầy người, to lắm, chiến công dữ dằn lắm!”. Ông Thu nhấn
mạnh chỉ xin anh Hai nhưng ông Thiếu Tá vẫn tập họp một Đại Đội cho ông chọn.
Chính ông Thiếu Tá lựa ra bốn người. Ông Thu gọi anh Hai ra. Vậy là năm người
được tập trung trong câu lạc bộ với ông Thu. “Tôi nói với mấy ảnh như thế này:
“Thật sự tôi chỉ cần anh Võ văn Hai thôi, nhưng ông Thiếu Tá tốt bụng cho thêm
bốn anh nữa. Thôi mấy anh về nghỉ đi, cứ nghỉ ba tháng nhưng đừng ra ngoài đường,
đừng mặc đồ lính quân cảnh nó bắt, tôi không có thời giờ đi lãnh về”. Vậy là chỉ
có anh Hai phải ngày ngày đến ngồi làm mẫu, bốn anh còn lại được chơi thả cửa
trong ba tháng! Sau ba tháng ròng rã, tượng coi như hoàn thành nhưng ông Thu vẫn
chưa hài lòng. Ông không tìm được nét buồn của anh Hai khi ngồi trong quán nước
trước đây. Một bữa, ông để anh ngồi, không nói gì và bỏ vào trong nhà. “Tôi vô
trong nhà, dòm lén qua lỗ gió. Khi ngồi lâu, anh Hai mới nhớ lại, hoàn toàn trở
lại hồi cũ ở quán nước, nét mặt ảnh buồn như trước. Khi ảnh buồn thật sự, tôi lấy
cây viết chì với miếng giấy ghi lại chỉ nét mặt thôi. Nó rũ xuống như thế nào
tôi vẽ như thế nấy. Tôi chỉ vẽ cái môi, cái miệng, cái mũi thôi”. Ông cho anh
Hai về. Ba giờ khuya, ông tắt hết đèn, cầm đèn cầy ra tạc chi tiết trên mặt bức
tượng. “Không có gì bằng đêm khuya vắng vẻ, mình nói với tượng khi soi đèn cầy
để tìm ánh sáng. Khi tôi cầm cây đèn cầy bên này thì ánh sáng bên này tạt qua,
khi tôicần ánh sáng bên kia thì tôi đưa cây đèn cầy qua bên đó. Tôi đưa lên đưa
xuống, một tay tôi cầm đèn di chuyển, một tay tôi làm. Làm tới sáu giờ sáng,
tôi thấy đẹp quá, nét mặt của tượng buồn quá, buồn lắm. Nhưng mà thôi, tôi đi
ngủ”. Tám giờ sáng, khi mặt trời đã lên, ông Thu ra coi nét buồn dưới ánh sáng
mặt trời có đạt như dưới ánh nến không. Ông thấy y chang!
Nghệ sĩ
đích thực luôn cầu sự toàn mỹ. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tự làm khó
mình để đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật. Tính ông như vậy. Một học trò của ông
từ hồi trung học, anh Nguyễn Tuấn Khoa, đã kể lại. “Thầy Thu tuổi Giáp Tuất (1934),
dạy môn hội họa cho tôi tại trường Võ Trường Toản từ năm 1958. Ông có dáng người
chắc khỏe, tầm thước,có cá tính rất mạnh, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò
cầm bút chì theo kiểu cầm archet khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học
sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học ông
chọn ra hai, ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người
vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng
tôi từ lớp 6, cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai
cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc
của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như người khổng lồ so với các
học sinh cấp 2 bây giờ?”.
Tháng 12
năm 1975, tại lớp 10C5 trường Võ Trường Toản, đứa con trai “chịu đòn thay cả lớp”
bị gọi mang cặp lên văn phòng Hiệu Trưởng. Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết,
lạnh lùng ra lệnh đuổi học vì “ba em có nợ máu với nhân dân”. Anh Khoa kể tiếp:
“Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe. Trí lầm lũi, khóc nấc và
nói: “Tao bị đuổi học!”. Trí giấu mẹ nó vì sợ bà buồn, sinh bệnh mà chết. Mỗi
sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui lỗ chó vào sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn
sang trường cũ, nơi có tượng cụ Võ Trường Toản do ba nó tạc năm 1972”.
Cùng thời
gian này, tại trại cải tạo Hàm Tân, ông bị quản giáo gọi lên vì không khai
trong lý lịch việc tạc tượng Thương Tiếc. Sáu tên cán bộ đã thay nhau đánh ông
trong ba ngày liên tiếp. Chúng đập mạnh vào hai mang tai ông đến chảy máu tai
và điếc luôn từ ngày đó. Sau đó ông bị giam trong conex tám tháng không thấy
ánh mặt trời.
Một ngày nọ,
khoảng bốn giờ sáng, cửa conex mở, một họng súng AK chĩa thẳng vào ông, giọng
tên cán bộ ra lệnh cho ông bước ra ngoài. Chiếc còng được khóa vào tay ông.
Chúng dẫn ông đi về phía cổng trại để vào khu rừng chuối kế bên. Bỗng có một
chiếc xe jeep chạy tới, đèn pha sáng rực. Hai bên nói chuyện với nhau khoảng
năm phút. Ông tiếp tục bị kéo vào khu rừng và bị nhốt vào trong một nhà cầu của
khu gia binh của quân đội quốc gia bị bỏ trống từ lâu. Ông nằm thiếp đi vì quá
mỏi mệt. Ông không biết là ông được tha chết vào giờ chót. Tới trưa, một cô gái
mang cơm tới cho ông. Từ đó cô gái Bắc kỳ này là chị nuôi của ông. Ít lâu sau,
cô gái nói với ông: “Em thương mấy anh sĩ quan cải tạo các anh lắm. Kể từ nay,
em sẽ để một chút thịt nằm dưới chén. Anh hãy ăn chút thịt này trước để đề
phòng cán bộ khỏi bắt gặp làm khó dễ”. Tại sao cô gái này lại có cảm tình với
ông như vậy? Tại vì bức tượng Thương Tiếc! Cô cho biết là, thấy ông bị phạt nặng,
cô hỏi các bạn tù của ông. Họ cho biết ông là tác giả bức tượng Thương Tiếc. Cô
là con của một bộ đội ngoài Bắc xâm nhập vào Nam, bị tử thương trong một trận
đánh. Mẹ cô gánh cô vào Hố Nai sinh sống. Nơi cô ở rất gần nghĩa trang quân đội,
cô thường cùng các bạn tới chơi nơi bức tượng nên biết rất rõ bức tượng lính
này.
Vì biết tài
nặn tượng của ông nên cán bộ chỉ huy trại tù đề nghị ông tạc tượng Hồ Chí Minh
để trưng bày trong trại. Ông suy nghĩ và đồng ý với một điều kiện: ông được về
nhà ở Gia Định để lấy đồ nghề. Trong thâm tâm ông muốn trốn trại. Chúng chấp
thuận đưa ông về cư xá Việt Nam Thương Tín ở Hàng Xanh. Trong khi bốn tên an
ninh dẫn giải ông ngồi nói chuyện với cô em gái ông tại phòng khách, ông xuống
bếp với mẹ. Mẹ ông nghiêm khắc nói với ông: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu giờ con muốn
gì. Nếu trái ý mẹ, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Ông đành trở
lại trại tạc tượng trong sự ghẻ lạnh và xỉ vả của bạn đồng tù. Ông nuốt hận làm
việc. Trong khi đó, cán bộ trong trại dàn cảnh cho vợ con ông được phép thăm đặc
biệt. Tuy túng bấn nhưng gia đình cũng mua thịt vịt quay với bánh mì khi tới
thăm. Ông liếc thấy trong tờ báo Tin Sáng dùng để gói thịt quay có tấm hình của
Tổng Thống Thiệu, ông vội xé ra, gấp nhỏ, đút vào túi.
Khi bức
tượng gần hoàn tất, đám tù nhân đi qua nhìn thấy, xầm xì với nhau khi thấy
khuôn mặt tượng giống mặt ông Thiệu. Mấy tên “ăng-ten” vội báo cáo. Khi ông
đang gắn một bên râu mép bức tượng thì một cán bộ tới làm bộ hỏi chuyện, tay thọc
vào túi áo ông lôi ra bức hình ông Thiệu. Vậy là chết! Ông bị giam vào conex và
bị hành hạ đủ điều. Bốn tháng sau ông kiệt sức, bất tỉnh, được đưa tới trạm xá.
Trạm xá lúc đó do Đỗ Cao Đẳng (phi công?), chú của Trung Tướng Đỗ Cao Trí, làm
trạm trưởng nên ông được ông này cùng các học trò cũ của ông từ thời trung học
Võ Trường Toản tận tình chăm sóc. Ba ngày sau ông mới tỉnh lại.
Tới năm
1983 ông được thả sau tám năm trong tù. Bốn năm sau, ông vượt biên bằng đường bộ
tới Thái Lan trong túi không có một xu. Tại Mỹ, trong một lần tới Cali nói chuyện,
ông Thiệu đã xuống tận chỗ ngồi của ông thăm hỏi khi được nghe chuyện tạc tượng
của ông trong tù khiến ông rất cảm động.
Sau mười
năm ở Mỹ, ông trở lại Việt Nam. Người ta đồn ông về để dựng lại tượng Thương Tiếc
khi nghĩa trang Biên Hòa được phục hồi. Tháng 3 năm 2007, hai nhà văn Văn Quang
và Thái Phương tìm tới thăm ông. Cơ ngơi của ông ngày nay là tiệm cà phê vườn
“Tượng Đá”. Văn Quang kể lại: “Nhận ra người quen, anh Thu rời cây kéo tỉa hoa,
vui mừng ôm vai bạn. Kiểu “ăn diện” của Nguyễn Thanh Thu bao giờ cũng giản dị đến…quá
bình dân. Cái “mũ nồi” từ đời tám kiếp nào vẫn chùm hụp trên đầu, có vẻ cố giấu
cái đầu hơi lớn. Nhưng đó là “dấu ấn đặc biệt made in Nguyễn Thanh Thu”, không
lẫn đi đâu được. Cứ như, nếu không có cái “mũ nồi đen” và không có vẻ lam lũ
thì không phải là Nguyễn Thanh Thu!”. Khi được hỏi về dư luận đồn ông về làm lại
tượng Thương Tiếc, ông cười hà hà: “Ai cho làm mà làm?...Người nghệ sĩ chỉ sáng
tạo một lần. Lần thứ hai không thể làm như lần thứ nhất. Nhưng nó sống được
trong lòng mọi người thì tự nó còn mãi. Tôi tự hào về tác phẩm này. Dựng lại là
một điều chẳng hay ho gì. Nó sống trong lòng mọi người là đủ!”.
Tôi ở Thị
Nghè như Du Tử Lê nên khi Lê nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè và nhớ em Xa Lộ nhớ nhà
Hàng Xanh, nỗi nhớ lây sang tôi. Những địa danh nơi chốn cũ như xát muối trong
lòng. Xa Lộ của chúng tôi dẫn tới bức tượng Thương Tiếc. Tượng như người nhà.
Trời vừa vào thu, nơi tôi ngụ cư lá đã rơi vàng mặt đường. Trời đất ẩm ướt gọi
nỗi buồn dậy men trong lòng mọi người. Nỗi buồn đã đưa tôi về lại chốn xưa. Tôi
nghĩ tới bức tượng đồng trước nghĩa trang giờ chẳng biết đã nhão ra, hóa thân
vào chốn nào. Và nghĩ tới người tạc tượng. Kể từ năm 2007, khi Văn Quang và
Thái Phương tới gặp điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tính tới nay đã gần một thập
niên, ông hiện nay ra sao? Tôi liên lạc với Thái Phương để nhờ anh một lần nữa
tới quán cà phê “Tượng Đá” của ông Thu thăm hỏi. Người nghệ sĩ ở tuổi 82 vẫn
còn đó, vẫn sống với tượng lính cũ. Ông cầm tay Thái Phương luôn miệng nói:
“Tôi nhớ cái tượng Thương Tiếc lắm!”.
Nỗi nhớ của
ông cũng là nỗi nhớ của tất cả con dân đất Việt còn ở trong nước cũng như đang
sống tại đất nước người. Nhớ mà thương! Thương mà tiếc!
10/2016
Song Thao