Quán Thế Âm, Limeil, France, 2015 — Ảnh VHT
Tháng 9 bay về những đám mây đen, buổi sáng đã hâm. Limeil có con nắng đầu
thu như hơi thở háp từ một mùa hè còn ray rức chưa vội đi. Và cơn mưa nhẹ phớt
hạt chạy dài trên khung cửa. Tháng 9 nhìn đám trẻ sắm sửa trở lại học đường
đánh thức trường lớp và bài học vỡ lòng đầu đời. Tôi đi học trong lành
Thanh Tịnh, buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh…
Rồi những năm sau, sau nữa, mùa tựu trường gọi miên man xanh một thời ướm mộng.
Cho đến khi lá ủ vàng thành khối nặng hành trang, người chùng xuống như ngựa
quỵ giữa đàng. Và mặt trời cũng run rẩy hôm nay như điệu thu Prévert,
Un cheval s’écroule au milieu d’une allée
Les feuilles tombent sur lui [1]
Ngựa khụy chân giữa lộ
Bài thơ ngắn, L’automne, chỉ bốn câu mà kéo theo bao nhiêu lá vàng
ngập tràn trong cõi. Lá rụng khởi lá chồi, bên ngoài gọi bên trong và thời gian
mấy mùa mênh mông. Những bước chân có trống trải, có đợi chờ, những mối tình có
buồn ở lại? Cuối cùng ta bỏ lại ngôi trường, bỏ lại những con đường cũ bước vào
đời như những đứa trẻ từ đồng xanh rơi vực, nếu mượn lời The Catcher in the
Rye của J.D. Salinger. Bước vào đời có thực chăng là đi vào vực thẳm hay
chính sự đánh mất lòng trong sáng mới là địa ngục? Salinger cà tàng về một anh
chàng bắt trẻ đồng xanh Holden Caulfield mơ ước suốt ngày làm kẻ chăn giữ trẻ
thơ để chúng khỏi rơi tòm vào hố thẳm – That’s all I do all day. I’d just
be the catcher in the rye and all [2]. Hắn thích thú lời đồng ca, Comin
Thro’ The Rye, điệu Tô Cách Lan âm ngân lời thơ giữa những ngập ngừng trẻ
thơ vô nhiễm,
Should a body kiss a body,
The thing is a body’s own. [3]
hỏi môi ghé má chung cùng
ồ thân thể chuyện trùng phùng rất riêng
Có chăng ta khác với mình? Từ trong riêng rẽ tựa hình như chung. Riêng hay
chung, tôi bắt gặp rất nhiều mây từ vườn nhà anh Thi Vũ ở Limeil những ngày đầu
tháng 9. Đời chạy dài trong cuộc bắt nắng. Từ những lũng gió và lẳng nắng đơm
thành Hoa Nắng của anh. Rất sớm và lạ, một cõi Thơ nơi thiên nhai riêng biệt,
kỳ cùng lên điệu thiền tâm. Những bước của nắng bừng, những hương của hoa bung.
Hương không về qua khứu giác. Lời không vang trong âm thanh [4], vì
tất cả khởi từ Tuệ.
Hàng hoa dâm bụt hồng sau nhà chạy dài bờ tường, leo lên mái rêu xanh cuối
vườn. Trời đứng gió. Không dưng, một buổi sáng Limeil có đám mây trắng cuối đầu
chào đám mây đen, hoa lặng im tự bung cánh lả tả rơi thành chùm trên cỏ xanh.
Hoặc là ngẫu nhĩ tinh khôi, hay cơn nghi hoặc lậm bồi về khơi ? Rất tình cờ hoa
dội tiếng thinh không, nổ bùng hơn sấm mà lạ thay không một tiếng vang. Chỉ
những thanh động chuyền loang trong đầu, loại big bang mở khơi vũ trụ. Thị giác
mở toang thay cho thính giác ngay ở phút giây chuyển dịch từ sự hiện hữu đi đến
tan biến. Một chòm hoa sớm tinh mơ dịu dàng trước mắt vỡ bung hiện tiền thành
hoa rơi. Cánh bay trong không thong dong. Hoa đánh động ý thức phân biện
còn/mất từ người trong khi hoa ung dung la đà đáp xuống sân cỏ như nhiên của
diễn tiến liên tục nhân duyên. Như chưa hề có, như chưa hề không… Chưa bao giờ
tôi được “nghe” như thế, ngũ quan đâm lay bừng tinh tế vì một cánh hồng rơi ?
Mấy thế kỷ trước Moritake đứng giữa vườn đào nhìn hoa và bướm. Hồ điệp bay
vào mơ làm Trang Tử ngẩn người, một cánh bướm lượn giữa rừng đào khiến thi sĩ
ngờ vực. Thơ luôn là điều vươn tới, một ước mơ vượt trội, dù điểm đích có muôn
trùng. Như cánh hoa rơi bay ngược đậu lại cành? Thi sĩ ảo tưởng hay chỉ một
lóng mơ? Hoa nào có rụng, mà dẫu Em rời, thế nào Em cũng trở lại. Mỹ miều quý
hóa quá, ta chẳng muốn mất Em…
rakka eda ni
kaeru to mireba
kochō kana
(Arakida Moritake)
A fallen blossom
returning to the bough, I thought –
But no, a butterfly.
(Translation by Steven D. Carter)
một cánh hoa
lượn về cành
ồ không, hồ điệp du hành cuộc chơi
Con bướm bây giờ là linh hồn bay bổng của dáng hoa dưới hình thái khác.
Trong phấn khích hay bi ca, thi sĩ quyền biến hóa sinh sự hủy diệt thành sinh
lộ. Hoa không chết, cánh không về cội mà bay lên, thỏa hiệp với nhà thơ trong
cuộc chơi trần thế. Mất mát đó, không là gì, ở phút này điều đáng nói là cánh
bướm lấp lánh bay…
oOo
chim gọi đàn
tượng ngồi
tịch hư
Tượng đồng Quán Thế Âm ung dung từ tường nhìn xuống trà đường. Ngài không
cầm bình nước Cam Lộ như vẫn thấy ở những tượng đời thường, Bồ Tát vắt vẻo trên
mây, bay qua biển lắng nghe tiếng khổ chốn trầm luân. Thân vô trụ giữa vòng
không, vì khởi điểm hay đi về chung, cùng nằm trên một vòng tròn. Tượng thả áo
phơi ngực, mở lòng. Không còn cần thiết hành động tháo gút vì rỗng không vốn đã
tự lòng. Bồ Tát ngồi chân xếp chân thẳng, phong thái tự tại trong tư thế sẵn
sàng hành động, bước xuống đời.
Sáng nay mùa thu nhỏ giọt, mưa bụi bay bay. Mây trắng quấn như lọn tóc lửng
bờ vai thiên thể. Mây sẽ bay về núi. Tóc sẽ thả dài trong gió cho ngát xanh
dương liễu một miền quá khứ đã xa.
Niềm chao buổi sáng ngậy hương trà. Hôm nay anh Thi Vũ đãi món quý, trà Phổ
Nhị ủ ướp hơn sáu mươi năm. Đây là loại rất đắt giá mà chúng tôi không ai có đủ
khả năng mua. Anh nhận được từ người bạn quý tặng trên đường tranh đấu nhân
quyền quốc tế như là món quà của thiện duyên, bởi trong cõi nhân quần này không
có duyên chẳng bao giờ gặp gỡ được nhau. Trà Phổ Nhị (Pu-erh), người Quảng Đông
gọi là po-lay, loại trà đen thường thấy ở các tiệm ăn người Hoa, xuất xứ từ
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Khác với các loại trà xanh, trà Phổ Nhị sau khi ướp
được đem ủ thành bánh, thời gian ủ càng lâu hương vị càng dịu và thanh hẳn lên.
Chén trà trên tay mang hơn sáu mươi năm ướp ủ, vị chát nồng thường bắt gặp ở
trà Phổ Nhị đã thuần, không còn châm chích đầu lưỡi mà mượt nhẹ tím nhung. Màu
nâu đậm ối nguyên thủy đã lóng bớt chất đen phần nào, giờ thành đỏ thắm bình ấm
tử sa. Và mùi hương dâng mũi một rừng thu ẩm gỗ, của lá rụng bao mùa lưu giữ
hương xưa, pha ngây hơi hướm đất, trộn cùng với lâng lâng xông khói lam chiều
từ mái rạ chốn quê xa. Như thế hớp cạn chén, chút ngon ngót hậu vị chạy từ
miệng xuống yết hầu, bình sinh thế sự bất bình nói như Lô Đồng theo lỗ chân
lông mà bay đi, tận hướng mao khổng tán… Từ đó bắt gặp điều lý thú từ
trà Phổ Nhị, tánh thanh cao vốn đã sẵn nằm trong thô thiển.
Cứ thế anh Thi Vũ tiếp trà, chúng tôi cạn hết chén này sang chén khác. Mái
tóc trắng anh vuốt ngược ra phía sau. Đã bạc và thưa nhiều. Tôi chợt nhớ đến
màu đen nhánh lộng gió bốn phương từ những tháng năm bôn ba Mùa Xuân Xa [4]
trải dài gió bụi. Những thăng trầm trên đường đấu tranh quốc tế, những đòn thù
từ mọi phía, một mình đem vó dọ mông lung [4]. Bây giờ anh ngồi đó,
khuôn mặt tiên phong dạn dày, trong tranh sáng một sớm mai phảng phất nửa phiến
cười. Có lẽ anh đang vui, không vì mãn nguyện về thành tích mà vì đã dấn bước,
đó mới là điều quan trọng. Lên đường vì một hoài bão ôm ấp tự ấu thời để thu
ngắn con đường đau khổ của một quê hương mãi lầm than dưới bọn cầm quyền cú vọ.
Dù cho đến hôm nay con đường ấy vẫn còn xa. Nhưng sá gì, một nụ cười đợi chờ từ
quê cha thổ trạch đáng giá gấp triệu lần cơn khốn khó…
Con chim
hót
một tràng sông
Nụ cười bản trạch
thơm nồng
cõi xa [4]
Tháng 9 Limeil chúng tôi ngồi lại bên chén trà Phổ Nhị ướm hương thổ mộc
trầm rừng, nghe thầm thì lời những đám mây bay qua. Có một khoảng trời xanh và
rất nhiều mây đi ngang, tôi muốn nói một lời đậm nhất đến gia chủ Linh Mai
(Limeil) nhưng có lẽ trong gió, mọi lời đều không còn cần thiết…
Vũ Hoàng Thư
Tháng 12, 2015
[1] L’automne, thơ Jacques Prévert
L’automne
Un cheval s’écroule au milieu d’une allée
Les feuilles tombent sur lui
Notre amour frissonne
Et le soleil aussi.
Mùa thu
Ngựa khụy chân giữa lộ
Vàng lưng rơi lá khô
Tình ta giờ run rẩy
Mặt trời cũng lung lay
(Vũ Hoàng Thư phỏng dịch)
[2] The Catcher in the Rye, J. D. Salinger
[3] Coming Through The Rye, thơ Robert Burns (1759-1796) phổ nhạc theo điệu dân ca Scotland. Salinger mượn ý thơ để đặt tên nhan đề truyện The Catcher in the Rye.
[4] Thơ Thi Vũ