(Viết cho những khốn khổ, những điêu
linh của đất nước tôi và dân tộc tôi)
Tôi gấp quyển sách đang đọc dở dang,
đưa tay chùi vội những giọt nước mắt vừa lăn dài xuống má.
Quyển sách đó có tựa đề thật đơn
giản “Những Người Tù Cuối Cùng” của tác giả Phạm Gia Đại và chính anh cũng là
một trong hai mươi người tù cuối cùng được thả ra sau hơn mười bảy năm bị giam
cầm, tù đày trong lao tù Cộng Sản. Anh và các bạn đã là nhân chứng sống của lịch
sử. Những dòng chữ đó có hấp lực thật lạ lùng, càng đọc càng như bị kéo ngược
về dĩ vãng – một dĩ vãng đau buồn và uất hận mà tôi đã cố chôn vùi thật sâu
trong tận cùng của ký ức…
Sau biến cố tang thương của tháng 3
năm 1975 rút khỏi Ban Mê Thuột – là những đổ vỡ - những mất mát - những chia
lìa - những đọa đày - những uất hận của tập thể Quân Dân Cán Chính Việt
Nam Cộng Hòa, một quân đội hùng mạnh với những người con đã sống chết cho lý
tưởng tự do và sự phồn vinh của dân tộc. Ba mươi sáu năm qua biết bao thăng
trầm – nhưng mỗi lần nhớ về, lại là những lần nhói buốt, nó như vết thương lòng
không thể nào lành. Tôi thầm cám ơn tác giả của quyển sách đó đã là động lực để
tôi ngồi xuống ghi lại những hình ảnh mà tôi đã chứng kiến của buổi chiều hôm
ấy…
Trong cái lũ lượt của đoàn người di
tản từ Pleiku và Kontum qua con đường tỉnh lộ 7. Con đường này bỗng nhiên ồn
ào, náo nhiệt trong hỗn loạn, rồi tiếng gọi nhau vang dội cả một góc rừng.
Tiếng khóc than, tiếng xe, tiếng súng nổ rền vang, hệt như đàn ong vỡ tổ, người
chạy ngược kẻ chạy xuôi, tìm kiếm người thân bị thất lạc, đồ đạc vất bừa bãi,
những chiếc xe hư bỏ lại trên đường ngổn ngang. Tôi và Hùng người em trai nhỏ,
cũng tất bật trong đoàn người gian truân đó, bây giờ chỉ còn hai chị em, ba mẹ
và các em còn kẹt lại Ban Mê Thuột, mấy bữa nay tôi đã chạy đôn chạy đáo để dò
la tin tức gia đình, nhưng biết hỏi ai bây giờ, bởi chẳng ai biết rõ điều gì đã
xảy ra.
Trong tâm trạng rối bời đó, tôi chỉ
còn nhớ một điều là khi đến lớp, điều làm tôi ngạc nhiên là sĩ số các em học
sinh đến trường chỉ còn một nửa, tôi đang tìm câu trả lời thì có một em học
sinh đến gần bên tôi nhỏ nhẹ lên tiếng hỏi: “Thưa cô, ba mẹ em muốn biết là cô
có muốn chạy loạn cùng xe với gia đình em không?” Chạy loạn!!! Tôi nghe tiếng
chạy loạn mà tim nhói đau, có nghĩa là tôi phải rời bỏ nơi chốn này, xa trường,
xa học trò thân yêu của tôi, mà đi đâu kia chứ ?. Nhìn đứa học trò ngoan mà tôi
thương nhất lớp chưa biết phải trả lời ra sao ?.
Tôi mới ra trường được vài tháng,
nhận nhiệm sở ở đây, ngôi trường nằm trên ngọn đồi thoai thoải trông thật dễ
thương, tuy mới về nhưng tôi được học sinh, phụ huynh học sinh và các đồng
nghiệp thương mến chắc tại cái nhỏ nhoi, yếu đuối của tôi trong làn sương mù và
cái se lạnh của Pleiku chăng ?l
Tôi nghĩ thế. “Thưa cô, cô quyết
định như thế nào ạ?”, tiếng nhỏ nhẹ của người học trò lại cất lên, cắt ngang
dòng suy tư của tôi, tôi lặng lẽ gật đầu. Thế là mọi chuyện cứ tuần tự đi qua
như đã được sắp xếp tự bao giờ để giờ này đây tôi cũng có mặt trong đoàn người
di tản. Khi chiếc xe bị kẹt cứng, không thể nhích thêm một chút xíu nào, tôi
nhảy xuống xe để được thoải mái một lát và đi lần về phía trước, bỗng nghe một
giọng ru con lanh lảnh vừa ru, vừa khóc nghe thật não lòng!…
“Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre
lắt lẻo, gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học, mẹ đi
trường đời.”
Tôi lần theo tiếng ru hời đó, đến
dưới gốc cây to thì thấy một người đàn bà, đầu tóc rối bù, quần áo xốc xếch, ôm
chặt đứa con trong lòng mà ru, tò mò bước đến gần để hỏi thăm, chỉ vừa kịp nhìn
thấy đứa bé có nước da xám sậm, tôi như muốn ngã quỵ xuống, không biết đứa bé
đã chết tự bao giờ, vậy mà người mẹ vẫn cất tiếng ru não ruột để ôm ấp, để vỗ
về con mình.
Tôi kêu thất thanh, “Xin giúp chị
ấy, con chị đã chết rồi!”
Thấy tôi la lớn tiếng, mấy người
đang ở gần đấy bèn chạy lại, nhưng không thể nào lấy được đứa bé ra khỏi vòng
tay, chị cứ ghì chặt đứa con vào lòng, đứa bé như một bảo vật, một gia tài cuối
cùng của chị, vừa khóc vừa ru, “Con đi trường học, mẹ đi trường đời.”
“Chị đã thi đậu trường đời rồi đó
chị,” tôi thầm nhủ như thế định mệnh oan nghiệt đã cướp đi người con yêu dấu
của chị, chị cứ thế mà than van, “Con ơi! con bú đi con…” Tôi đưa tay bịt tai
lại để không còn nghe giọng ru hời thống thiết của một người mẹ vừa mất đi đứa
con nhỏ thân yêu.
Tôi không thể chịu đựng thêm nữa,
bèn quỳ gối, trước khoảng đất trống gần đó mà lạy mười phương tám hướng vừa
khóc, vừa van vái. Xin tha cho dân tộc con, cho đất nước con… Tôi úp mặt vào
đôi bàn tay nhỏ bé kêu lên “Chúa ơi !”…
Bỗng một bàn tay, đặt lên vai tôi,
“Chị ơi, chạy mau đi, không kip nữa đâu,” tiếng người em trai hối thúc. Tôi vội
vàng đứng lên như người vừa hoàn hồn, tôi chạy như bay để lại sau lưng người
đàn bà đang ôm ghì xác đứa con đã chết với tiếng ru hời bi thảm…
Ba mươi sáu năm trôi qua, chẳng biết
người đàn bà với tiếng hát ru hời ấy về đâu???
Hoàng Thị Cỏ May
(Cali, 2011)