(Nhân Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh
VNCH kỳ 10,
được tổ chức tại Nam California)
được tổ chức tại Nam California)
“…Cuối cùng trong cuộc đời này không có điều gì anh hùng
và cao thượng hơn là hy sinh cuộc đời mình để cho người khác được quyền sống.
Trong mắt tôi mãi mãi không có những người phế binh thương tật mà chỉ có những
con người trai anh hùng một thời chọn cho mình con đường đi và và sống đích thực
có ý nghĩa nhất.”
(trích thư Bác Sĩ Liên Hương ở San Jose gởi một người TPB VNCH)
Sau Tháng Tư, 1975, hằng trăm nghìn người thương binh của miền
Nam Việt Nam không thể nào che giấu lý lịch với đôi mắt mù, cái chân cụt và quá
khứ đã là một người lính có thành tích chiến đấu chống Cộng Sản ngoài mặt trận.
Không còn khả năng làm lụng để kiếm miếng cơm nuôi gia đình và chính bản thân
mình, những người này còn phải sống trong không khí lạnh lùng, ngờ vực và khinh
rẻ của kẻ chiến thắng không có tình người. Chính phủ, quân đội, đơn vị, cấp chỉ
huy, đồng đội không còn, gia đình quyến thuộc không đủ sức cưu mang vì chính họ
cũng bị nhận chìm tận cùng dưới đáy xã hội.
Trong xã hội mới, những người thương binh VNCH thật sự đã là
“những người bị bỏ quên.”
Đã có những hội đoàn, những tổ chức, những nhóm thiện nguyện
cứu đói, cứu nghèo, cứu bệnh tật, cứu gái sa chân, cứu trẻ bị bán ra nước
ngoài, cứu già thiếu gạo…
Tôi có cảm tưởng những vùng đất cứu trợ trên đã được chính
quyền trong nước cho khai quang, có khi còn giữ “an ninh bãi đáp” cho trực
thăng đổ người xuống cứu trợ để đỡ tay đỡ chân cho đảng lo việc trấn áp dân chủ,
nhân quyền. Trong khi đó, công việc cứu trợ các thương phế binh VNCH trong một
xã hội còn đầy mìn bẫy, hầm hố, thù hận, phải tiến hành lén lút, bí mật hay đột
kích gây thêm nhiều trở ngại, khó khăn cho cả phía những người hảo tâm và cả những
nạn nhân xấu số này.
Thương phế binh, đáng lẽ là những người mà hải ngoại cần phải
nhớ trước tiên, từ khi người sinh viên du học ra nước ngoài giữa lúc chiến
tranh trở nên tàn khốc, lúc cấp chỉ huy quân đội miền Nam bước chân lên Đệ Thất
Hạm Đội hay đảo Guam, từ khi người vượt biển được đặt chân lên đất liền, từ khi
người cựu tù được người ra đón ở sân bay, lại là những người bị quên lãng nhất.
Bà Dương Nguyệt Ánh, chuyên viên chất nổ của Bộ Quốc Phòng
Hoa Kỳ, tác giả trái bom “nhiệt áp” đã nói rằng, là một người tỵ nạn chiến
tranh, bà “không bao giờ quên được hình ảnh người lính Hoa Kỳ và VNCH đã từng
bảo vệ cho bà có một cuộc sống an toàn ở miền Nam trước đây.” Chúng ta cũng
hiểu rằng người lính VNCH thiệt thòi hơn cả sau chiến tranh chính là người
thương phế binh hôm nay.
Cô Liên Hương, một bác sĩ trong nhóm Huynh Đệ Chi Binh ở San
Jose, cũng như chúng ta đã có mặt tại Hoa Kỳ tự do, no ấm hôm nay sau những
ngày “tan hàng” đã hoạt động để cứu giúp “những người bị lãng quên,” vì
cô nghĩ rằng cô đã mang ơn những người này, người thương phế binh VNCH:
“Tôi viết thư cho anh hôm nay không phải như một người Việt
Kiều xa xứ được ưu đãi trong một đời sống an lành và thoải mái hơn về vật chất
lẫn tinh thần đang nghiêng mình xuống với người đồng loại bất hạnh, nhưng tôi
viết với tâm trạng của một cô gái năm xưa đã lớn lên yên ổn giữa thành phố Sài
Gòn, nhìn tuổi thơ ấu của mình trôi qua dưới ánh hỏa châu và những tiếng bom đạn
hằng đêm vẫn vọng về từ một chiến trường xa. Ở đó, bao nhiêu xương máu và nước mắt
của cả một thế hệ tuổi trẻ đã đổ xuống để che chở cho những cô gái nhỏ như tôi
được tiếp tục bình yên đến trường. Ở đó vẫn có biết bao nhiêu người chiến sĩ
như các anh còn ôm tay súng chiến đấu đơn độc với những giờ phút chót, để gia
đình chúng tôi có cơ hội xuống thuyền ra đi tìm đến những quê hương hạnh phúc mới
bên này bờ biển Thái Bình Dương.”
“Chính với tấm lòng tri ân và ngưỡng mộ đó mà hôm nay tôi
thấy cần phải viết cho anh cho các bạn của anh, những lời các anh xứng đáng được
nghe nhưng có lẽ đã chưa bao giờ được nghe từ gần 30 năm qua, để các anh hiểu
được rằng những hy sinh của mình đã không lãng phí hay vô ích. Những tượng đài
có thể bị đạp đổ, nhưng những hình ảnh thần tượng ghi khắc trong lòng sẽ chẳng
bao giờ bị xóa nhòa. Chúng ta đã mất mát rất nhiều thứ, những người thương binh
như các anh đã mất hết một phần thân thể, tình yêu và tuổi trẻ, và những người
Việt tỵ nạn như tôi cũng đã mất hết một nơi chốn dung thân để phải tha hương
lưu lạc khắp mọi phương trời. Có một điều ngày hôm nay tôi mong chúng ta sẽ
không đánh mất là tình người đến với nhau, để khoảng không gian anh đang sống
và hít thở bớt đi niềm lẻ loi và cô độc.”
“Cuối cùng dù tôi không thể gởi nguyên một bài hát về
cũng xin cho tôi được tặng anh và những người bạn anh hùng không tên tuổi của
anh lời tựa của bài hát ‘You Are My Heroes,’ bởi vì cuối cùng trong cuộc đời
này không có điều gì anh hùng và cao thượng hơn là hy sinh cuộc đời mình để cho
người khác được quyền sống. Trong mắt tôi mãi mãi không có những người phế binh
thương tật mà chỉ có những con người trai anh hùng một thời chọn cho mình con
đường đi và và sống đích thực có ý nghĩa nhất.”
Những dòng chữ trên đây của một người con gái, một đứa em hậu
phương cũng như tất cả chúng ta đã mang một món nợ không bao giờ trả nổi, món nợ
xương máu mà chúng ta đã nương nhờ, vay mượn từ lúc chúng ta được yên ổn ở hậu
phương, rất xa mặt trận, và cả đến lúc chúng ta ngoảnh mặt rời quê hương ra đi.
Những năm trước, bức thư này đọc trên đài phát thanh ở Bắc California đã làm
rơi lệ hằng nghìn người nghe ở hải ngoại, nhưng rồi cơm áo đa đoan, cuộc sống bề
bộn, nhiều lúc chúng ta đã quên hẳn hình ảnh người thương phế binh Việt Nam một
cách phụ bạc, nhẫn tâm mà đáng ra phải canh cánh ghi nhớ trong lòng.
Ở hải ngoại từ trước đến nay, những quyên góp giúp đỡ cho
thương phế binh được đưa xuống hàng thứ yếu sau những chiến dịch dai dẳng cho
người nghèo, cho trẻ thất học, cho chùa chiền, thánh thất, cho mổ mắt vá môi… Nếu
có lòng, thì cũng với những hoạt động lẻ tẻ do một nhóm người, một tổ chức quy
tụ một số thân hữu giúp cho năm bảy gia đình, hay khá hơn là vài trăm thương
binh. Chúng ta chưa có được một ngày dành cho thương binh, một chiến dịch rộng
lớn như những ngày chúng ta đóng góp cho quỹ kháng chiến, để rồi cuối cùng sự
việc chẳng đi tới đâu, khiến lòng tin của hải ngoại mỗi ngày một suy kiệt.
Ẩn mình từ trong những xóm làng xa xôi sống nhờ trên mảnh đất
khô cằn khoai sắn, hay bầm dập giữa phố thị với xấp vé số trên tay, thậm chí
còn trở thành kẻ hành khất kêu gọi tình thương của người qua đường đâu đó. Nỗi
xót xa, tủi nhục ấy bao giờ tiêu tan được, cũng như những nỗi đau sâu thẳm
trong tâm hồn họ không bao giờ hết, trong khi qua thời gian làn da nơi chân tay
què cụt đã chai đá, những vết thương đã lành. Lớn hơn hết là những người thương
phế binh này đã mang mặc cảm là “người đã bị bỏ quên” trên quê
hương, nơi mà thù hận chưa nguôi, đối xử vẫn còn phân biệt như những người lính
lạc đơn vị bị bỏ lại trên đất địch.
Ôi những vòng hoa chiến thắng ngày nào, những câu hát từ người
em gái hậu phương, những mỹ từ và lời xưng tụng người ta đã dành cho anh. Số phận
của người lính thất trận đã đổ nhào thêm lên tấm thân cụt què, yếu đuối. Họ sống
cuộc đời cay đắng ấy (nếu còn có thể gọi đó là cuộc đời), có người mới hơn 30
năm, có người đã gần hết cuộc đời, thế giới ngày nay của họ có thể là một chiếc
giường tre của người bị bại liệt, trên chiếc xe lăn của người què cụt lê lết
hay ốm đau, già nua quanh quẩn trên sân nhà.
Thế giới hôm nay của chúng ta so với đời sống thương phế
binh ở quê nhà là thiên đường và địa ngục, tương phản giữa ánh sáng và bóng tối.
Dù có san sẻ tới mức nào cũng không lấp đầy nỗi thống khổ,
dù bù đắp tới mức độ nào cũng không xứng đáng với sự hy sinh.
Huy Phương