10 November 2016

VÀI NÉT VỀ QUYỀN LỰC CỦA TỔNG THỐNG MỸ - Tạ Đức Trí


Mặc dù được xem là một trong những gương mặt lãnh đạo uy quyền nhất thế giới, quyền lực của tổng thống Mỹ không phải là vô hạn định. Đó là nhờ Hoa Kỳ có một thể chế chính trị phân quyền gồm ba ngành hành pháp, lập pháp, và tư pháp hỗ trợ cho nhau theo mô thức “kiểm soát và cân bằng” (check and balance), và tổng thống chính là người đứng đầu của ngành hành pháp.
Theo hiến pháp Mỹ, tổng thống là nhân vật đứng đầu cơ quan hành pháp, cũng là nguyên thủ quốc gia đồng thời là tổng tư lệnh quân đội. Vai trò của ngành hành pháp là thi hành pháp luật. Do đó, trách nhiệm của tổng thống là lãnh đạo quốc gia đi theo đúng những điều luật đã ghi trong hiến pháp và các luật liên bang. Ngành hành pháp dưới quyền lãnh đạo của tổng thống có khoảng bốn triệu nhân viên, trong đó có cả quân đội. Trong một hệ thống chính trị phân quyền, hai cơ quan lập pháp và tư pháp giữ quyền kiểm soát và cân bằng quyền hạn của tổng thống. Ví dụ như trong quyền bổ nhiệm nhân sự, tổng thống được quyền bổ nhiệm các chức vụ trong nội các, đại sứ, chánh án trong tối cao pháp viện, và một số vị trí trong chính quyền liên bang. Tuy nhiên, các chức vụ này đều phải được Thượng Viện chấp thuận.
Tuy tổng thống không nằm trong ngành lập pháp, nhưng ông vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh một số điều luật, đặc biệt là lúc đảng chính trị của tổng thống chiếm đa số tại lưỡng viện Quốc Hội. Một trong những quyền hạn về mặt lập pháp của tổng thống là quyền phủ quyết. Tất cả các dự luật sau khi được thông qua tại Thượng Viện phải cần được tổng thống ký thì mới chính thức trở thành đạo luật. Nếu tổng thống phủ quyết, thì dự luật bị trả về cho Thượng Viện. Quốc Hội muốn vượt qua quyền phủ quyết của tổng thống cho một dự luật, cần phải có sự biểu quyết với hai phần ba số phiếu áp đảo và điều này sẽ trở nên rất khó khăn và tạo thêm sự căng thẳng giữa hai cơ quan ngành pháp và lập pháp.
Về mặt quân sự, tuy Quốc Hội có quyền tuyên chiến, nhưng việc lãnh đạo quân đội sẽ hoàn toàn thuộc về tổng thống. Trong vị trí là Tổng Tư Lệnh quân đội, tổng thống có quyền hạn tối cao chỉ huy quân đội và đưa ra những chiến lược quân sự cần thiết. Ngược lại, Quốc Hội có khả năng giới hạn quyền này của tổng thống qua việc kiểm soát ngân sách quân sự. Bên cạnh đó, tổng thống cũng là người hướng dẫn đường lối ngoại giao cho quốc gia. Do đó, tổng thống thường phải chịu trách nhiệm cho chính sách đối ngoại trong nhiệm kỳ của mình.
Nơi ở và làm việc của tổng thống là Tòa Bạch Ốc. Có lẽ ai cũng đã biết chiếc phi cơ dành riêng cho tổng thống được gọi là Air Force One, ngoài ra, tổng thống còn có thể sử dụng máy bay trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến được đặt tên là Marine One. Tương tự như vậy đối với Navy One, Army One, hay Coast Guard One khi tổng thống sử dụng những phương tiện này. Lương tổng thống tính đến năm 2014 là 400,000 Mỹ kim. Tổng thống đầu tiên George Washington được trả lương 25,000 Mỹ kim tương đương với khoảng 566,000 Mỹ kim hiện giờ. Ngoài mức lương chính ra, tổng thống còn được thêm 50,000 Mỹ kim tiêu xài, 100,000 Mỹ kim cho việc di chuyển và 19,000 Mỹ kim dành vào các việc giải trí. Tổng thống vẫn phải đóng thuế hàng năm như bất kỳ công dân nào khác tại Hoa Kỳ.
Để bảo vệ an ninh cho tổng thống, một đội mật vụ (secret service) có trọng trách phải theo sát và bao chung quanh tổng thống mỗi khi tổng thống xuất hiện trước quần chúng. Trước năm 1997, tất cả những vị tổng thống tiền nhiệm và gia đình đều được bảo vệ an ninh cho đến khi tổng thống qua đời. Luật đã được sửa đổi năm 1997 và những tổng thống sau này chỉ được bảo vệ trong vòng mười năm sau khi mãn nhiệm. Tổng thống Bill Clinton là người cuối cùng được hưởng quy định bảo vệ suốt đời. Tuy nhiên, vấn đề khủng bố trong những năm gần đây khiến Quốc Hội đang xem xét lại việc bảo vệ an ninh suốt đời cho các vị tổng thống tiền nhiệm vì hầu hết các cựu tổng thống sau khi rời Bạch Cung vẫn tiếp tục hoạt động khá mạnh mẽ trong các lãnh vực khác như ngoại giao, nhân quyền, xã hội, v.v.
Điều kiện căn bản để có thể ứng cử tổng thống là phải đủ 35 tuổi, là công dân sinh ra tại Hoa Kỳ và phải cư ngụ tại Hoa Kỳ ít nhất 14 năm. Nhiệm kỳ của tổng thống là bốn năm và tổng thống chỉ được nắm quyền trong hai nhiệm kỳ liên tục dựa theo Tu Chính Án 22 có hiệu lực từ năm 1951. Trước đó, việc giữ hai nhiệm kỳ chỉ là một tiền lệ do tổng thống George Washington đặt ra và được hầu hết các tổng thống sau đó theo chân nhưng không phải là luật chính thức. Tổng thống Franklin D. Roosevelt là người duy nhất thắng cử tổng cộng bốn lần. Ông lãnh đạo Hoa Kỳ từ năm 1933, vượt qua giai đoạn Đại Khủng Hoảng và Đệ Nhị Thế Chiến, cho đến khi ông qua đời vào tháng Tư năm 1945, vài tháng sau khi nhậm chức nhiệm kỳ thứ tư.
Khác với những quốc gia có hệ thống bầu tổng thống trực tiếp, tổng thống Hoa Kỳ được bầu một cách gián tiếp. Mặc dù mọi công dân đều bỏ phiếu bầu tổng thống, nhưng tổng thống tại Hoa Kỳ thắng cử là dựa trên số phiếu của cử tri đoàn (electoral college) thay vì tổng số phiếu bầu của cử tri. Số lượng cử tri đoàn tùy vào số lượng dân biểu và thượng nghị sĩ liên bang của một tiểu bang. Ví dụ, tiểu bang California có 55 phiếu cử tri đoàn vì có 53 dân biểu liên bang (U.S Congress Member) và hai thượng nghị sĩ liên bang (U.S Senator). Những tiểu bang bé nhỏ như South Dakota chỉ có 3 phiếu cử tri đoàn vì chỉ có một dân biểu liên bang và hai thượng nghị sĩ liên bang. Số lượng dân biểu liên bang của một tiểu bang tùy theo dân số của tiểu bang đó. Như vậy, tiểu bang nào càng đông dân thì càng có thế mạnh về mặt số phiếu bầu trong cử tri đoàn.
Trong cuộc tranh cử tổng thống, kết quả được tính theo từng tiểu bang; ứng cử viên nào có số phiếu cử tri cao hơn sẽ thắng được số phiếu cử tri đoàn của tiểu bang đó, và người với số phiếu cử tri đoàn cao hơn sẽ trở thành tổng thống. Trong năm 2000, tuy phó tổng thống Al Gore có số phiếu phổ thông cao hơn (popular vote), có nghĩa là nhiều người dân bầu cho ông hơn, nhưng ông vẫn thua tổng thống George W. Bush vì bị thua phiếu của cử tri đoàn. Chính vì điều này mà trong một cuộc vận động tranh cử tổng thống, các ứng cử viên dồn nhiều nỗ lực vận động phiếu tại các tiểu bang đông dân như California, Texas, New York, Florida, v.v. để có thể thắng được nhiều phiếu cử tri đoàn hơn. Trong trường hợp các ứng cử viên tổng thống có phiếu cử tri đoàn bằng nhau, Hạ Viện sẽ bầu chọn tổng thống và Thượng viện sẽ chọn ra phó tổng thống. Tổng thống Barack Obama là tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, cũng là vị tổng thống da màu đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ.
Với hệ thống dân chủ tại Hoa Kỳ, tổng thống có thể bị cách chức khi phạm các tội liên quan đến phản quốc, tham nhũng, hay những tội nghiêm trọng khác. Trong trường hợp này, Hạ Viện sẽ có quyền buộc tội tổng thống và Thượng Viện sẽ xét xử tổng thống. Trong lịch sử Hoa Kỳ, có hai tổng thống bị Hạ Viện luận tội là Andrew Johnson và Bill Clinton, nhưng cả hai đều vượt qua được. Riêng đối với tổng thống Richard Nixon về vụ Watergate, ông đã từ chức trước khi bị Hạ Viện luận tội. Đây chính là nét son của xã hội dân chủ – ngay chính tổng thống vẫn bị xét xử theo pháp luật khi phạm những sai lầm nghiêm trọng.
Với chức vụ cao nhất trong chính quyền Hoa Kỳ, tổng thống được xem là người có quyền lực nhất, nhưng hệ thống phân quyền tại Hoa Kỳ đã chia đều quyền lực của ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm tạo được sự hài hòa và cân bằng quyền lực, giúp Hoa Kỳ đứng vững cho đến ngày nay.


Tạ Đức Trí