Tháng mười một, mùa đông lẽ ra phải hết từ lâu. Đường phố đã vắng hẳn những
bóng hoa đào hồng rực hay màu mimosa vàng óng, vậy mà sao cái lạnh cắt da vẫn
còn ùa tới và những buổi chiều rời sở trời vẫn còn tối sẫm với những cơn mưa lạnh
buốt lê thê. Ngày vẫn còn rất ngắn vậy mà những buổi sáng đã bắt đầu ngẩn ngơ
khi ngước nhìn những đường phố rợp những hàng cây xanh mềm bóng lá. Trong các
mall đã bắt đầu ngập quần áo mùa xuân, mùa hạ. Các hàng hiệu đã thấp thoáng những
cây thông và hàng hóa Giáng sinh.
Một năm đã
lại sắp hết, sao ngày tháng trôi đi nhanh quá, chiếc lá này chưa kịp xanh chiếc
lá khác đã nhạt nhòa. Mùa này chưa qua, mùa khác đã vội tới, nên những tuổi đời
cũng giục giã tàn phai.
Mới buổi
sáng tỉnh giấc, đi trong làn sương mỏng, lớp sương mù hình như chưa tan hết đã
thấy sương chiều rải rác quanh đây. Những buổi chiều, sao tôi vẫn sợ những buổi
chiều như thế. Lạnh, mưa và ướt át. Đường phố giờ tan sở ngập bóng người đi vội
vã. Những bóng người dưới trời mưa lạnh hình như đã tan đi phần nào sinh khí,
chỉ còn tiếng gót giày khua trên bờ phố và những khuôn mặt mệt mỏi sau giờ làm
việc. Những bóng người đi bên cạnh tôi đã bao ngày nhưng vẫn không một lần
thoáng hiện niềm vui khi nhìn thấy nhau. Những khuôn mặt lạnh lẽo như bằng sáp,
đủ để cho những cơn gió sắt se lạnh lại càng thêm hiu hắt.
Tôi bước vội
xuống escalator đi vào ga xe lửa. Trên những platforms buổi chiều vẫn đông người,
nhưng ai nấy như đắm chìm trong một suy nghĩ nào đó, hoặc dán chặt mắt vào những
trang báo hay cuốn sách đọc dở dang. Thỉnh thoảng tiếng loa phóng thanh lại
vang lên báo hiệu tuyến đường xe lửa sắp tới, màu đèn sáng lòa đường hầm, môt số
người vội vã bước lên, tiếng còi hú dài và những con tàu lại lăn đi. Đã bao buổi
chiều như thế, đã bao buổi chiều tôi đứng nhìn đoàn nguời lên xuống, đã bao
chuyến tàu chợt đến chợt đi, đã bao lần tôi cũng bị quấn hút vào đám người lạ lẫm
và lạnh lẽo đó, để lên những chuyến tàu, tiếp tục chìm đầu vào trang sách hay
báo, hay lặng lẽ nhìn những hàng cây, đường phố trôi lại phía sau. Cuộc đời đều
đặn, nhàm chán đến rợn người. Thèm biết bao nhiêu được gặp lại một bóng người
quen hay một nụ cười thân thịện.
Đường hầm lại
rực sáng, tiếng loa phóng thanh lại rồn rã, một chiếc xe lửa lại trờ tới, đoàn
người lại vội vã lên xe. Giữa đám đông xa lạ ấy, hình bóng hai phụ nữ Á châu bé
nhỏ, thoáng đập vào mắt. Ở khu vực trung tâm thành phố này, số đàn bà Á châu đi
làm thật tương đối hiếm hoi.
- Thôi Hằng
về nha, mai Trúc gọi lại Hằng nha.
Giọng nói
thánh thót làm tôi giật bắn người, cái tiếng Bắc trong trẻo này, cái tên Trúc dễ
thương kia như đang gợi một hình ảnh nào tôi đã mất từ lâu lắm. Chiếc tàu đã đi
qua, người phụ nữ còn lại đứng một mình trên sân ga, cô ta quay lại đến ngồi
trên băng ghế cạnh tôi. Khuôn mặt bầu bĩnh, có lẽ đã ngoài ba mươi, nhưng thật
dịu dàng và thuần khiết, đôi mắt và khóe miệng vẫn còn long lanh nụ cười, và trời
ơi. Hai lúm đồng tiền xinh xinh ở một khóe môi bên phải, một lớn một nhỏ làm
tim tôi thắt lại
- Phải Thủy
Trúc em của anh Mai không?
Người phụ nữ
nhìn tôi, ánh mắt dọ hỏi, nhưng vẫn dịu dàng:
- Thủy Trúc
đây, anh là bạn anh Mai?
- Linh đây,
Linh bạn anh Mai. Anh Mai giờ ở đâu?
- Anh Linh ạ?
À, em nhớ rồi, hồi xưa anh học lớp với anh Mai, hay lại chơi với anh Mai phải
không ạ? Anh em giờ ở Mỹ.
- Anh Mai vợ
con gì chưa?
- Dạ, anh ấy
lấy vợ muộn nên giờ hai đứa con còn nhỏ xíu.
Rồi Trúc cười,
hai lúm đồng tiền lại sâu xuống xoáy mạnh hồn tôi đau nhói.
- Không như
em, bữa nay làm bà ngoại rồi anh.
- Bà ngoại,
không thể tưởng được, nhìn Trúc ai cũng nghĩ chỉ ngoài ba mươi.
- Cám ơn
anh, không trẻ vậy đâu anh, tại em lấy chồng sớm quá, với lại cũng gần 50 rồi
anh.
Lại một
chuyến xe lửa trờ tới, đúng tuyến đường của tôi. Trúc đứng lên chào:
- Xe lửa của
em tới rồi, chào anh ạ.
- Xe tôi
cũng chuyến này.
Tôi và Trúc
cùng lên xe. Trên xe Trúc cho tôi biết hai vợ chồng mới dọn về khu này, hai
cháu gái đã có gia đình cả nên hai vợ chồng mua cái appartment nhỏ ở gần con
cho tiện. Giọng nói Trúc hồn nhiên, vui vẻ. Người con gái thẹn thùng ngày nào
đã thành một thiếu phụ thật duyên dáng và vẫn còn giữ được nét son trẻ ngày
xưa. Trúc xuống trước tôi hai ga, nhìn dáng Trúc nhỏ nhoi đi lẫn vào dòng người,
lòng tôi chùng xuống, một thoáng nhớ thật xa xôi, nhập nhòa theo một dáng người
thật gần gũi, nhưng cũng xa vời vợi. Tôi chợt nhớ ra mình đã quên hỏi địa chỉ
và điện thoại của cô, hình như tôi vẫn còn ở trong giấc mơ chứ không hoàn toàn
hiện hữu. Tôi xuống xe lửa, đi chậm rãi về căn nhà nhỏ của mình. Trời buổi chiều
vẫn xám và đang tối dần, nhưng trong tôi, ánh nắng đầu ngày hình như đã lại đi
lên, đủ soi sáng cây thủy trúc trước cửa nhà lấp lánh, một màu xanh nhẹ nhàng
cho những thoáng nhớ không tên nhưng chập chùng dịu vợi.
*
Tôi biết
Trúc đã từ lâu lắm. Học cùng trung học với Mai, anh của Trúc. Ngày ấy còn ở Đà
Lạt, cái thành phố mà bây giờ đã bao năm tôi vẫn còn nhớ cái nét dịu dàng của
nó. Cái thành phố mà mỗi nét vẫn là một yếu tố trong những quyết định của cuộc
đời, từ việc chọn thành phố sinh sống, đến mua căn nhà ở, hình như tôi vẫn cố
tìm lại những khung cảnh ngày xưa, nơi có những hàng thông hay những sườn đồi
xanh thoai thoải.
Ngày xưa,
thỉnh thoảng lại chơi với Mai, Trúc hay ra mở cửa. Cô bé xinh xắn với hai con mắt
tròn to lấp lánh, khe khẽ mỉm cười làm hai chiếc lúm đồng tiền trên má phải lúm
sâu, khẽ chào và quay đi để chúng tôi nói chuyện với nhau. Hoặc cô xuống bếp,
hoặc lặng lẽ ngồi học ở chiếc bàn trong cùng phòng. Mái tóc đen thường xõa dài
trên đôi vai nhỏ. Cô và Mai hoàn toàn không hay biết là dáng dấp và hình ảnh của
cô đã theo tôi suốt bao nhiêu ngày tháng. Có một lần tôi đến nhà và cùng Mai đi
học. Hôm ấy cô cũng có giờ học nên Mai chở cô đến trường. Nhìn cô nhẹ nhàng
trong chiếc áo dài trắng, và chiếc áo len xanh. Mái tóc buộc túm lên lộ khuôn mặt
bầu bĩnh, với nước da trắng hồng của con gái Đà Lạt, tôi ngẩn ngơ nhìn. Trong
lúc Mai loay hoay đẩy xe ra cổng, cô cúi xuống khóa cửa, tôi tự dưng như không
bước đi được, tôi lặng đứng nhìn cô. Cô vẫn cúi đầu vặn khóa nhưng có lẽ cô biết,
nên tôi thấy từ má cô những tia máu đỏ rất nhỏ từ từ xuất hiện làm đôi má cô
càng thêm hồng. Cô vẫn cúi mặt dù cửa đã khoá xong, chưa bao giờ tôi đứng gần
cô đến thế, mùi thơm nhè nhẹ từ người cô làm tôi ngây ngất. Tôi muốn bước đi,
nhưng chân cứ chôn chặt ở đấy. Mai đã nổ máy xe, vẫn nhẹ nhàng cô quay người,
khẽ nhẹ mỉm cười, trên má lại lúm sâu hai lúm đồng tiền xinh xắn. Cô thoăn thoắt
bước ra ngồi sau Mai. Tôi chạy xe chầm chậm phía sau, người bồng bềnh, lặng
nhìn chiếc xe đằng trước của hai anh em Mai. Trời Đà Lạt hôm ấy rất xanh và rất
trong. Xe qua hồ Xuân Hương, hai tà áo dài của cô bay nhẹ trong gió, cái gió dịu
dàng của một ngày xuân đẹp. Dáng cô nghiêng nghiêng, tôi ước gì có một lần được
chở cô như thế, để cô cũng nghiêng đầu, người cô cũng dựa nhẹ vào lưng tôi như
thế. Những sợi tóc của cô theo gió mơn man trên gáy, trên vai tôi, và mùi thơm
của cô theo cơn gió phảng phất mãi bên người. Mai đưa cô đến trường, cô cười với
anh và quay lại khẽ gật đầu chào tôi. Cả ngày hôm ấy tôi ngơ ngẩn.
Từ đó,
trong giấc ngủ, dáng cô vẫn hiện về, với nụ cười nhẹ nhàng và hai lúm đồng tiền
sâu bên má phải. Từ đó, tôi vẫn bắt gặp mình hay chạy xe dọc theo đường hồ,
vòng qua tia phun nước, lên dốc Bồ Đề, chạy để nhớ cái dáng nghiêng nghiêng, với
chiếc áo len xanh, tà áo dài trắng. Đã bao nhiêu năm, cái màu trời xanh, màu hồ
xanh, những hàng thông rì rào, những rặng quỳ vàng ối đã đi theo trí nhớ của
tôi qua bao chặng đường.
Thủy Trúc,
người con gái ngày xưa đã trở về, nhưng rồi tôi lại vẫn mất em, vì có bao giờ
tôi nắm giữ được em, hở em yêu dấu. Tôi chỉ có thể trồng những cây thủy trúc dọc
theo những lối đi, để chiều chiều trở về, lòng dịu lại sau những giờ làm việc mệt
mỏi, để nhớ đến em cũng như nhớ đến khung trời Đà Lạt ngày xưa, đã ươm mơ cho
những giấc mơ của tôi.
Hái nụ
hoa xanh lòng ngại ngần muốn hỏi
Mơn nhẹ
đóa hồng muốn khẽ nói yêu ai
Chỉ sợ
ngữ ngôn xóa mất nét trong ngần
Để đôi mắt
đó không còn thơ ngây như trước
Em đừng
xõa tóc trong những chiều nhạt nắng
Đừng khẽ
thở dài cho nắng bỗng ngừng trôi
Đừng để
mắt môi nói lên tiếng đợi chờ
Và đừng
để tim tôi mềm trong gió
Tôi gửi
đến em một chút tình trong vắt
Một nụ
cười hồng mang chút nét trẻ thơ
Một chút
dễ thương của ánh nắng dịu dàng
Để giây
phút này vẫn luôn còn sống mãi.
Ngày ấy, vì
yêu Thủy Trúc, tôi đã thành thi sĩ từ lúc nào không biết, tối tối tôi viết những
vần thơ cho cô, viết mà không bao giờ dám gửi. Gặp cô ở nhà Mai, cũng không dám
nói chuyện gì, chỉ biết tôi siêng lại nhà học chung với Mai hơn. Hai anh em cô
học rất giỏi, Mai lại rất tốt, kiên nhẫn giảng cho tôi những bài toán khó. Nhiều
lúc lại nhà, cô có bạn đến học cùng, nghe tiếng cô thánh thót nói chuyện với bạn,
tôi như ngây ra chẳng suy nghĩ được gì, Mai cứ phải giảng đi giảng lại. Có lần,
Mai bắt gặp trong vở tôi bài thơ tôi viết trong lúc nghĩ đến cô, Mai cười: Cái
thằng này bữa nay bắt đầu mê gái rồi hở, mày mê ai nói cho tao hay được không.
Tôi chỉ biết đỏ mặt chống chế. Mai cầm bài thơ của tôi, đọc to:
Anh theo
em dọc theo con dốc nhỏ
Hoa quỳ
vàng rực rỡ áo trắng em bay
Thành phố
mù sương lãng đãng chút mây hồng
Tình anh
đó theo tấm áo học trò bay bỡ ngỡ
Anh viết
những vần thơ vào chiếc lá làm quen
Song
không dám trao sợ tia mắt ai cười
Hay hờ hững
làm hồn anh nát mất
Anh vẫn
theo em trong những sáng nắng mùa xuân
Tình
nhút nhát nên không thành lời âu yếm
Chỉ biết
nhìn theo dáng nhỏ ngọt ngào
Tóc đen
mướt xõa dài trên áo trắng
Rồi những
sáng mùa thu anh vội vàng đến lớp
Lỡ bỏ
quên chiếc lá ở sân trường
Gió mơn
man nhẹ thổi chiếc lá vàng
Rơi trên tóc em như nụ hôn anh thầm gửi đến
Mai cười
khanh khách: Thằng này làm thơ cũng được đấy chứ. Lý ra mày phải đi ban C chứ
sao theo ban B?
Tôi chỉ muốn
độn thổ, không dám nhìn Trúc ở chiếc bàn học trong góc phòng. Mai lại nghiêm
trang nói: Lo học đi, năm nay mà rớt là đi lính đó, đừng thơ thẩn nữa.
Ngày hôm đó
Mai kiểm soát chỉ bài cho tôi rất kỹ nhưng tôi hấp thụ rất ít, cả tâm trí để cả
vào Trúc, tôi muốn biết thái độ của cô khi nghe bài thơ ấy. Nhưng tôi không dám
nhìn về phía cô, lúc Mai ra khỏi phòng, tôi quay lại thì ra cô đã vắng mặt từ
lúc nào.
Sau đó vài
tháng, cả gia đình Mai về Sài Gòn, ba Mai chuyển công tác về đó. Tôi cũng mất
liên lạc với gia đình Mai luôn. Tôi ở lại Đà Lạt, xong tú tài lên đại học. Những
buổi chiều nhớ Trúc, tôi vẫn chạy xe chầm chậm lên dốc nhà Mai, qua bờ hồ, qua
dốc Bồ Đề, nhìn những bụi quỳ vàng óng, nhìn bầu trời xanh thẳm mà nghe lòng dâng
một nỗi nhớ mông mênh.
Có những
ngày mưa, trời chiều Đà lạt sương mù lướt thướt, trong màn mưa nhìn cặp Lê Uyên
Phương dìu nhau dưới chiếc dù đen. Lê Uyên lúc đó đẹp lắm, dáng thanh mảnh
trong chiếc áo khoác màu kem nhạt, khoác tay chồng đi chầm chậm dưới mưa dọc
theo bờ hồ. Hai người đi trong mưa, nhưng hình như không biết đến những cơn mưa
ướt và gió lạnh. Tôi ước gì một lần, được dìu Trúc đi trong cơn mưa như thế,
Trúc cũng sẽ níu lấy cánh tay tôi, hai đứa đi giữa mưa lạnh nhưng trong lòng vẫn
đầy ấm áp.
ước gì
trời đổ mưa rào
cho
chung đôi bước, che chung cây dù
trên trời
dù có mây mù
nhưng
bên nhau vẫn ngất người đê mê
cho dù đời
có ê chề
bên nhau
vẫn thấy ấm lòng ngất ngây
cho em
má đỏ hây hây
mắt long
lanh sáng,thì thầm yêu anh
Nhiều hôm vào
quán café của Lê Uyên và Phương, nghe hai người hát, nhìn ánh mắt họ nhìn nhau,
những lời ca trữ tình như tình thêm theo làn mắt đắm đuối của họ. Những lời hát
mang chút âm hưởng đau thương nên lúc đó có tin đồn Phương sắp chết vì ung thư
gì đó. Thấy cuộc tình của họ, lòng tôi gợn lên nỗi xót xa. Ước gì có một người
yêu mình như thế, chết cũng không uổng một đời. Yêu nhau thế, nhưng sau qua Mỹ,
nghe nói cuộc tình giữa hai người cũng tan vỡ. Nhưng trên những đường phố Đà Lạt,
vẫn còn in những dấu chân của hai người, của một thời yêu thương say đắm.
Thời thế đổi
thay, tôi cũng bước chân qua Úc, làm lại cuộc đời lúc tuổi đã gần ba mươi. Tôi
đã bao lần bước đi trong nắng, nghĩ đến Trúc; tôi đã bao lần bước đi trong mưa,
nghĩ đến Trúc. Đã bao đêm nhìn trăng lên, nghe sương xuống, nhớ đến vùng trời
Đà Lạt của một thời ngây thơ tuổi nhỏ, nhớ đến mối tình đầu đời trắng trong thuần
khiết như lụa trắng tinh nguyên.
Đã có lần về
Đà Lạt, nhìn lại thành phố đã thay hình biến dạng, chỉ còn con đường bờ hồ là
ít thay đổi. Dốc Bồ Đề, Võ Tánh, con đường trước trường đại học và Bùi Thị Xuân
đã hoàn toàn khác hẳn. Những cửa hàng hiệu xô bồ tràn lan trên đường phố. Những
con người Đà Lạt ngày xưa đã biến đi đâu mất. Tôi vòng lên ngõ nhà Trúc, mong
được nhìn lại khung cửa ngày xưa đã một lần tôi đứng cạnh cô để nhìn cô nghiêng
người khóa cửa. Nhưng căn nhà ấy đã không còn nữa. Nguyên con đường đã đầy các
nhà nghỉ và những tiệm bán buôn.
Đà Lạt
ơi, một lần về, một lần mất mát
Một lần
về còn ôm mãi niềm đau
Những
xót xa hiu quạnh đến không ngờ
Vì chốn
cũ nhưng không còn xưa cũ
Đà Lạt
ơi, ngày trở về tôi khóc
Tôi tìm
hoài những phố nhỏ ngày xưa
Những rặng
cây loáng thoáng bóng quỳ vàng
Hàng dâm
bụt ngả nghiêng chiều lộng gió
Đà Lạt
ơi, còn mong chi mà nhớ
Phố phường
chừ không bóng dáng ai quen
Căn nhà
xưa cũng đổi dáng đổi hìnhTôi đứng đó nhưng dường như mất hút
Vậy mà hôm
nay, tình cờ tôi lại gặp Thủy Trúc. Thời gian hình như không mang lại nhiều dấu
ấn trên em, người con gái dịu dàng với tâm hồn trong trẻo ngày xưa. Cái giọng
nói Bắc lai lai thánh thót của ĐàLạt ngày xưa đã hơi trầm xuống nhưng lại nồng
nàn và ngọt dịu hơn ngày xưa. Yêu em đã bao năm, mới được môt dịp ngồi gần em đến
như thế, mới được một lần nói chuyện với em như thế, được một lần đối mặt để
nhìn thấy hai con mắt của em vẫn sáng long lanh, một màu long lanh huyền ảo, vẫn
to tròn tinh anh, và đôi má vẫn còn hồng mịn với hai lúm đồng tiền trên má phải.
Thủy Trúc, tôi đã gặp lại em để rồi lại để em bước đi, vì trong đời tôi có bao
giờ tôi đã nắm giữ được em. Em chỉ là một tình yêu dịu ngọt, của mối tình đầu học
sinh tưởng thoảng qua nhưng đã thành bất diệt. Em là cả một khung trời thơ ngây
trong trắng, để tôi vẫn có thể sống với niềm tin là cuộc đời vẫn còn những gì đẹp
đẽ.
Cám ơn Thủy
Trúc, cám ơn buổi chiều hôm nay. Một buổi chiều đã xóa đi những nỗi lo sợ của
tôi trong những ngày tháng qua. Tôi sẽ không còn phải lo sợ phải nghe một tin bất
hạnh nào đó về em hay Mai, như những bất hạnh đã đến với một số bạn hữu của tôi
ngày xưa. Tôi sẽ không còn phải lo sợ gặp lại em, nhưng hình dáng đẹp đẽ của em
đã bị bào mòn vì thời gian, như nỗi lo sợ bàng hoàng và đau đớn của tôi khi trở
về Đà Lạt nhìn thấy thành phố mất đi vẻ đẹp hoang sơ ngày nào. Thủy Trúc của
tôi, cám ơn em đã trở về một lần, để tôi tin là một tâm hồn thánh thiện vẫn
luôn mang một vẻ đẹp không bao giờ thay đổi dù thời gian, cuộc đời có tàn khốc
thế nào đi nữa. Nhớ lại khuôn mặt rạng rỡ và ánh mắt yêu thương của em khi nhắc
đến chồng con và các cháu, tôi thật mừng cho em, và cũng mừng cho những người
thương yêu của em đã có được em trong đời. Nhưng lòng tôi cũng không khỏi se sắt
bồi hồi khi nghĩ đến mình sẽ luôn không có em, trong quãng đời này.
Nhưng dù
sao, ít nhất, tôi đã có hình ảnh của em để mang theo trong suốt cuộc đời của
tôi, có một khoảng trời xanh Đà Lạt đã nuôi tôi khôn lớn và trở về trong những
giấc ngủ cho ngày tháng bớt nỗi buồn tênh. Thủy Trúc, một lần nữa cám ơn em đã
trở về, có thể tôi sẽ còn cơ hội gặp lại em vào những buổi chiều tan sở, trên
những sân ga, để lại được có dịp ngồi nói chuyện với em, như hai người bạn cũ gặp
lại nhau, để lại được ngắm nụ cười thuần hậu. Nhưng cũng có thể, em lại một lần
nữa bước ra khỏi hẳn đời tôi, để chỉ trở về trong những giấc mơ, và như thế,
thì thật là buồn lắm.
Có phải
em chỉ là mơ
Nên khi
tôi ngủ tôi nhìn thấy em
Bâng
khuâng lấy sợi chỉ hồng
Thả vào
trong gió để mà buộc em
Gió bay
sợi chỉ mất rồiBơ vơ tôi đứng, ngỡ ngàng nhớ em.
Tháng Mười Một 2003
Thiên
Hương