12
giờ trưa, "Cọp đen" Nguyễn văn Trọng, trung úy đại đội trưởng đại đội
45 trinh sát đứng trên ngọn đồi 1034, đảo cặp mắt "diều hâu" nhìn một
vòng chung quanh đồi rồi nói với người đại đội phó:
- Mình đặt bộ chỉ huy đại đội trên ngọn đồi này. Ông cho chúng nó đào hầm hố bố
trí chung quanh đồi...
Thiếu úy Hoàng gật đầu, sửa lại sợi dây ba chạc, xoay người vừa rảo bước đi thì
Trọng gọi hắn lại, chỉ vào một ngọn đồi đối diện, thấp hơn một chút xíu:
- Khoan, hay là thế này. Ông để thằng 1 và thằng 2 (trung đội 1 và 2) nằm ở
lưng chừng đồi bên này với tôi, ông dắt thằng 3 và 4 qua ngọn đồi bên kia mà bố
trí...
Đưa tay chỉ vào con đường đất nhỏ xa xa phía dưới, Trọng tiếp:
- Cho chúng nó đặt cây M-60 vào ngày cái chỗ trống trãi gần con đường mòn này
cho tôi. Rải thêm chốt hình chữ "V" từ hai trên đồi xuống tới đó. Tôi
thấy đó là chỗ duy nhất mà chúng nó có thể mò ra được.
Thấy người đại đội phó hoang mang, Trọng tiếp tục:
- Nếu có chuyện gì cũng đỡ, mình cẩn thận vẫn hơn...
"Cẩn thận vẫn hơn...", ông như thế là quá cẩn thận rồi chứ còn gì nữa
mà vẫn hơn, Hoàng nghĩ thầm trong bụng nhưng không dám càu nhàu. Chỗ ngày là
vòng đai thành phố Kon Tum, Việt Cộng nào mò đến đây được mà phải cẩn thận đến
như vậy?
Nhìn khuôn mặt của đại đội phó, Trọng biết hắn nghĩ gì trong đầu. Thật ra, những
gì Hoàng nghĩ có lẽ đúng nhưng với cương vị của một cấp chỉ huy nắm sinh mạng của
hơn trăm người trong tay, Trọng không thể nào làm khác hơn được. Đánh nhau trên
chiến trường, chỉ một tiếng bùm là xong hết. Người chết không biết chuyện gì đã
xảy ra cho mình. Nhưng về hậu cứ sau những trận đánh ác liệt những người chỉ
huy như Trọng phải trực diện với một thực tế thương tâm kinh khủng. Vợ lính con
lính kéo về chật cả sân đại đội. Đuổi đi không nở, năn nỉ không được. "Chồng
tôi đâu rồi, ông giết chồng tôi chớ đâu phải giặc nào giết..." Hay là :
"Bố cháu đâu chú, chú trả lại bố cháu cho cháu..."
Trọng đã trải qua những cảnh thương tâm như thế này. Nhiều khi, Trọng nghĩ, cái
đám vợ con lính mới là những người đáng thương nhất, tội nghiệp nhất. Lính, dù
sao, như chàng nghĩ, chỉ một tiếng bùm là xong hết mọi chuyện...
Vì thế, ở chiến trường, dù đánh giặc tới đến độ vang danh là Cọp Đen, là đại đội
trưởng đại đội trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn với những chiến công táo bạo
lừng lẫy tưởng chỉ có thể có trong phim xi nê, ít người biết Trọng coi trọng mạng
sống của lính tráng hơn cả của chính mình. Điều này, chỉ có cấp chỉ huy của Trọng
biết và lính của Trọng biết. Vậy là đủ rồi...
Thật ra, đối với Trọng, muốn trở nên một người chỉ huy giỏi không khó lắm. Điều
thứ nhất, Trọng hiểu biết quy luật bất di bất dịch ngàn đời của tạo hóa: Hễ
mình thương lính thì lính thương mình. Thương đúng nghĩa của chữ thương: Sống
chết với lính mình. Đi nhảy toán, thường thường, Trọng là một trong những người
dẫn đầu đại đội, đặt chân xuống đất đầu tiên. Lúc trực thăng đến bốc, Trọng là
một trong những người cuối cùng leo lên tàu bay... Trọng còn nhớ như ngày hôm
qua trận Tân Cảnh. Hồi đó, trung đoàn còn do một ông đại tá già vốn xuất thân từ
dân lính khố xanh khố đỏ chỉ huy. Hốt hoảng vì bị cấp trên xỉ vả sau khi một tiểu
đoàn của ta bị 2 trung đoàn địch vây hãm trong nhiều ngày, ông ta quyết định
cho thằng 45 trinh sát của Trọng nhảy vào giữa khu tập trung quân của địch để...
gây tiếng vang.
"Đánh giặc ngu như c... mà cũng mang lon đại tá." Trọng lẩm bẩm chửi
thề trong bụng. Tuy chưa bao giờ chỉ huy đến cấp tiểu đoàn nhưng Trọng biết tiểu
đoàn này tuy bị vây hãm nhưng vẫn có thể cầm cự được lâu ngày nhờ hầm hố kiên cố
và tiếp liệu đầy đủ. Trọng biết chắc một điều là nếu đại đội nhảy vào đó thì sẽ
bị tiêu diệt trong vòng 15 phút đầu tiên sau khi trực thăng hạ càng xuống. Trọng
không lạ gì cái màn này. Trong những trường hợp tuyệt vọng, Trọng sẵn sàng chấp
nhận cùng lính nhảy vào chỗ chết để tìm cái sống nhưng trong tình hình không có
gì bi đát, không thể thí quân một cách ngu dốt chỉ vì bị một vài tiếng xài xể của
cấp trên như vậy được.
Trọng nghiêm nghị hỏi vị chỉ huy:
- Thưa Đại Tá, xin đại tá lập lại nhiệm vụ đại đội tôi nhảy vào đó để làm gì?
Phòng họp hôm đó còn nhiều sĩ quan cấp tá khác nữa, ai nghe cũng muốn nhảy dựng
ngừơi lên vì câu hỏi xấc láo của người trung úy trẻ. Trong quân đội, nhất là một
đơn vị bộ binh, chưa bao giờ có một đại đội trưởng lại chất vấn trung đoàn trưởng
như thế này.
Ông đại tá già khựng người một lát như không ngờ được câu hỏi bất ngờ. Bình thường
thì ông ta đã có thể nổi máu du côn lên dùng gậy đập túi bụi vào người sĩ quan
trẻ vô lễ này rồi nhưng nhìn thấy ánh mắt toé lửa của Trọng, ông ta không dám.
Nó đã dám hỏi như vậy thì nó đâu có sợ mình. Rồi ông trả lời yếu ớt:
- Thì tôi đã nói, để... gây một tiếng vang, cho báo chí biết là chúng ta không
có thua.
- Thưa đại tá, là lính, chết chúng tôi không sợ nhưng đại tá nghĩ coi tôi và
hơn một trăm người nữa trong đại đội tôi có đáng chết vì một "tiếng
vang" vớ vẫn như vậy của báo chí không?
Mọi người trong phòng nghe tới đâu là thấy rúng động tới đó. Cọp mở miệng có
khác.
Ông đại tá chưa kịp trả lời thì Trọng ôn tồn đem lời lẻ phải trái ra trình bày
cho ông ta nghe. Đây là cố gắng cuối cùng của Trọng, người chỉ huy biết thương
yêu lính. Trọng không hiểu mình sẽ phản ứng như thế nào nếu ông già này cứ một
hai bắt Trọng nhảy xuống đó. Ý nghĩ kinh hoàng quá đến độ chàng không dám nghĩ
đến. Nhưng, tất cả mọi hình phạt từ việc ra tòa án quân sự, nằm quân lao v.v...
đều không bằng cái sinh mạng của mấy trăm chiến sĩ can trường. Người ta đi lính
để chết cho tổ quốc chứ không để chết cho một thằng ngu nào hết...
Cuối cùng, tạ ơn trời đất, ông ta nghe lới Trọng, hủy bỏ quyết định điên rồ ấy
đi.
Chuyện này đồn ra khắp nơi, tiếng tăm của Cọp Đen Nguyễn văn Trọng từ đó vang lừng.
Vang lừng nhưng ai cũng hiểu vì sao Cọp Đen không bao giờ móc được cặp lon đại úy
trên cổ áo...
Điều thứ hai, muốn chỉ huy có hiệu quả, người chỉ huy phải áp dụng một kỷ luật
thật khắc khe nhưng nghiêm minh và công bằng. Dân trinh sát đa số là dân trời
đánh không chết, tình nguyện về cũng có mà trị không được bị đẩy về từ các đơn
vị khác cũng có. Nhiều thằng lính của Trọng đã từng ở tù quân lao, từng giết
người chỉ vì một chai bia. Duy trì kỷ luật với một thành phần hổn tạp như vậy
không phải là chuyện dễ. Nhiều khi, rất là nguy hiểm. Trọng học được một điều rất
quan trọng của đời binh nghiệp là muốn cho lính nghe lời mình, trước hết nó phải
phục mình đã. Nếu lính đã phục mình rồi thì không có chuyện gì mình bảo mà
chúng nó từ chối. Điểm then chốt là phải làm sao cho chúng nó phục. Quân đội có
thể ban chức tước cùng lon lá cho anh nhưng không thể ban sự kính phục của thuộc
cấp cho anh. Đây là tài năng riêng của mỗi người.
Riêng với Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng, lính chưa về đại đội đã nghe tiếng chàng rồi.
Về dưới quyền chỉ huy của Trọng, chúng nó càng phục thêm.
Trọng hiểu lính và lính hiểu Trọng...
Khi Trung Tá Sang, một sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Võ Bị về nắm trung đoàn
thì Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng như hổ được trở về rừng. Ngày nhậm chức đơn vị trưởng,
ông ta gọi Trọng lên hỏi han tình hình rồi kết luận:
- Anh muốn xin gì tôi không?
Trọng trả lời thẳng thắn:
- Thưa có hai chuyện!
- Chuyện thứ nhất?
- Xin trung tá cho vài xe tôn và ván để tôi tu bổ khu gia binh của gia đình
binh sĩ lại. Thấy vợ con họ và họ lui cui trong mấy cái ổ chuột sau những ngày
hành quân tôi không nở...
Trung Tá Sang mau mắn gật đầu, quay sang dặn dò người sĩ quan phòng tư rồi hỏi
tiếp:
- Chuyện thứ hai?
- Xin trung tá cho bổ sung quân số của đại đội tôi được đầy đủ, cho tôi có nhiều
thì giờ một chút để huấn luyện lính tráng cho thuần. Chúng nó thuần rồi thì nếu
trung tá có thả tôi ra... Hà Nội, tôi cũng bắt sống được thằng Võ nguyên Giáp
đem về đây trình diện Trung tá...
Trung Tá Sang cười hề hề:
- Chẳng hổ danh Cọp Đen. Khẩu khí dân Trinh Sát có khác.
Khi chia tay, ông vỗ vai Trọng cười:
- Tôi rất ngạc nhiên và chịu hai lời yêu cầu của anh, tôi sẽ cố gắng.
Rồi ông bắt tay Trọng, cười cười hỏi:
- Tại sao người ta gọi anh là Cọp Đen?
- Thưa, nước da tôi hơi đen nên chọn danh hiệu truyền tin là Cọp Đen cho nó ngầu.
Chẳng ngờ anh em gọi mãi rồi tôi thành Cọp luôn...
Trung Tá Sang giữ đúng lời hứa với Trọng. Mọi chuyện Trọng xin đều được thỏa
mãn. Nhờ đó, đại đội 45 trinh sát trở nên một đơn vị thiện chiến nhất của sư
đoàn. Nhờ ông trung đoàn trưởng biết xử dụng đúng khả năng bất ngờ và cơ động hầu
như chỉ bị giới hạn bởi tầm bay trực thăng nên Trinh Sát của Cọp nhảy xuống đâu
là giặc tan ra tới đó. Đã có lần, một trung đoàn xe tăng của địch vừa tới vùng
Tam Biên, không kịp để chúng nó có thì giờ co cụm, Trung Tá Sang cho Trọng nhảy
ngay vào giữa bộ chỉ huy. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, lính của Trọng bắt sống
được 3 chiếc xe tăng của địch ở Võ Định. Trung Tá Sang hớn hở vô cùng, tính gởi
một chiếc về Sài Gòn tặng tổng thống Thiệu nhưng cuối cùng đành phải đốt bỏ vì
không có phương tiên chuyên chở kịp thời...
Hôm nay, đại đội chàng được điều động về đây sau gần một năm trời hành quân khắp
các nơi của vùng II chiến thuật vì một lý do đặc biệt. Đặc biệt đến nổi Trung
Tá Sang cho trực thăng ra đại đội bốc chàng về để gặp ông.
Trọng nhớ mãi lời nói thống thiết của ông trung đoàn trưởng bộ binh chiều hôm
qua ở bộ chỉ huy trung đoàn. Làm việc với nhau hơn một năm, ông rất quí mến Trọng,
coi như em. Trung tá Sang đã cầm hai vai Trọng, giọng rất thành thật: "Tôi
biết là tôi đã hứa với anh một tuần lễ "ăn chơi chết bỏ" ở hậu
phương. Anh xứng đáng, lính của anh xứng đáng nhận được phần thưởng đó sau một
năm trời hành quân cực khổ, nhưng anh biết, chiến trường ở nước ta bây giờ, người
ta không còn phần thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa. Nếu anh biết được
những gì tôi biết, anh sẽ thông cảm tôi nhiều hơn. Áp lực của giặc cộng đầy dẫy
khắp nơi, trong khi mình hết lính rồi. Anh cố gắng đi. Tôi đã khéo xoay sở lắm
mới bốc được anh về nằm làm an ninh vòng đai cho tiểu khu Kon Tum. Khu vực này
trước kia do một tiểu đoàn địa phương quân chịu trách nhiệm nhưng tôi đã đề nghị
với tiểu khu trưởng Kon Tum rút họ đi chỗ khác vì thấy họ làm việc không có kết
quả. Anh dẫn đại đội về nằm đây... chám trổ cho tụi nó, vừa nằm dưỡng quân vừa
giữ an ninh và vừa canh giùm mấy cái họng pháo của chúng nó luôn..."
Sao mà lắm "vừa" thế này, Trọng thầm nghĩ. Phép đã không được đi bây
giờ còn phải dẫn lính vào rừng nằm vừa làm an ninh, vừa canh pháo vừa trám chỗ
v.v... Mẹ kiếp cái cuộc đời của thằng lính bộ binh, thật đen hơn cả mỏm chó.
Nhưng câu nói thống thiết "Chiến trường ở nước ta bây giờ, người ta không
còn phần thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa..." của vị chỉ huy trưởng
trung đoàn làm Trọng không dám từ chối. Trọng biết trung tá Sang nói thật.
Ông bảo sĩ quan phòng 2 đưa cho Trọng coi một tập hồ sơ về lai lịch của cái
làng Thượng. Đọc hết bản tóm tắt, Trọng được biết cái làng Thượng này vốn được
một ông linh mục người Pháp già rất khó tánh coi sóc. Theo tin tức tình báo,
ông cha Tây này không ưa người quốc gia, thiên cộng nặng. Dĩ nhiên, sống ở một
nơi hẻo lánh mà dám thiên cộng và không ai dám làm gì thì phải có vũ khí bí mật.
Cái vũ khí đó của ông là sự liên lạc chặt chẻ với các nhóm chính trị thiên tả
ngoại quốc và báo chí khắp nơi trên thế giới.
Pháo binh chỉ rớt nổ gần làng một chút là vài ngày sau tòa thánh La Mã, Dinh Độc
Lập, toà Đại Sứ Mỹ đều nhận được kháng thơ của ông. Báo chí thế giới, vốn từ
lâu đã chẳng ưa gì mình, liền hùa theo làm rầm rộ, tuyên án chính phủ gắt
gao...
Dĩ nhiên, bị áp lực nặng nề như vậy, lệnh từ bộ tổng tham mưu ban xuống:
"Từ này về sau, đừng động đến chúng nó nữa."
Việt Cộng biết rõ chuyện này hơn ai hết cho nên chúng cứ kéo pháo về gần làng bắn
vào thành phố rồi bỏ chạy. Phi pháo ta đành chịu. Để tạm thời giải quyết vấn đề,
tiểu khu cho một tiểu đoàn địa phương quân đến đóng ở gần đó để canh chừng.
Nhưng quân số càng ngày càng thiếu hụt, tiểu đoàn này đã được rút đi để trám
cho những chỗ khác quan trọng hơn. Khu vực trách nhiệm được giao cho trung đoàn
45 bộ binh. Trong lúc hết quân, chẳng biết lấy quân ở đâu để trám vào chỗ này,
Trung Tá Sang nghĩ đến Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng.
Đây là một vấn đề rất tế nhị, cần một người vừa có khả năng quân sự vừa ngoại
giao, vừa chính trị để giải quyết vấn đề. Trong các thuộc cấp của ông, Trọng là
người được ông đánh giá cao nhất. Trọng không phải là một "simple" đại
đội trưởng. Trong đơn vị, Trọng gây được sự tin tưởng tuyệt đối của thuộc cấp.
Nơi chiến trường, địch quân nghe đến tên Cọp Đen là tán đởm kinh hồn. Trong những
lần đóng quân gần thôn xóm làng mạc, Trọng lấy được tình thương của dân chúng.
Trọng gấp tập hồ sơ hỏi trung tá Sang:
- Việc tréo cẳng ngỗng như vậy, Trung tá muốn tôi đem lính tới đó làm gì?
- Đọc hồ sơ chắc anh biết rồi. Tôi muốn anh đem lính tới đó đóng quân xa xa,
cách làng chừng vài cây số để chúng nó sợ thôi. Coi như đi nghĩ mát vậy mà.
"Coi như đi nghĩ mát vậy mà", Trọng nghĩ đến lời pha trò vô duyên của
cấp chỉ huy mình. Nụ cười của Trọng méo mó:
- Nếu tôi phát hiện được súng của chúng nó đặt ở trong đó, tôi kêu pháo binh tới
dập được không?
Trung tá Sang dẫy nẩy như người dẫm phải lửa:
- Không, không, dập con khỉ. Anh đọc hồ sơ rồi chắc biết. Cái lệnh này đến từ bộ
tổng tham mưu, đừng có cương bậy bạ mà đi tù hết cả lũ.
- Vậy tôi phải làm gì?
- Ngay cả tôi cũng không có quyền quyết định. Anh cứ án binh bất động, nếu phát
hiện pháo, anh gọi về cho tôi, tôi sẽ xin chỉ thị sư đoàn. Sư đoàn sẽ xin chỉ
thị Quân Đoàn rồi cho anh biết quyết định.
Trọng ngán ngẩm lắc đầu. Chờ lấy được cái quyết định của quân đoàn thì chúng nó
đã thu dọn hết súng ống về nhà tắm rửa ăn cơm và nhảy được vài bản "Sol Đố
Mì" rồi...
- Tóm tắt, nhiệm vụ của anh là dẫn lính tới đó... cắm trại và nghĩ ngơi. Đừng
có lạng quạng mà thân bại danh liệt. Anh ráng nhớ cho kỹ!
Trước khi từ giã để chàng leo lên trực thăng về đơn vị, ông nói lời cuối:
- Anh ráng nghĩ ngơi nhiều chừng nào tốt chừng đó. Không biết tôi sẽ cần đến
"thằng trinh sát" của anh lúc nào. Thôi nhé, ráng nghĩ ngơi...
Thế là sau gần một năm trời sống mái với giặc trong khắp "hang cùng ngõ hẻm"
của rừng cao nguyên, đại đội trinh sát lừng danh của Trọng lại lóc cóc leo lên
xe GMC để được chở tới một điểm hẹn nằm trên quốc lộ 14. Từ đây, người Thường
Sơn Triệu Tử Long tân thời của sư đoàn 23 bộ binh lầm lũi dẫn quân mình vào gần
buôn Thra, đóng trên một ngọn đồi để "trấn nhậm" khu vực trách nhiệm...
Chân bước đều nhưng đầu óc quyền biến của con cọp chuyển động rất nhanh. Ngoài
chuyện phải đi trấn nhậm một vùng đất mà mình không được làm gì cả, chàng còn
phải lo tới một vấn đề khác là tinh thần của lính đang xuống rất thấp. Mà thấp
là phải. Đánh nhau cả năm trời để rồi cuối cùng được "ăn Noel" bằng
cách khăn gói quả mướp vô làm an ninh và canh pháo vớ vẫn nơi một cái buôn Thượng
ở chốn rừng sâu núi thẳm như thế này thì ai mà ăn cho nổi. Dù quyết định không
phải ở nơi chàng, nhưng Trọng thấy phần nào mình cũng có trách nhiệm. Chính
mình hứa với chúng nó là Noel này sẽ về hậu phương "ăn chơi chết bỏ"
chứ đâu phải Trung tá Sang.
Bây giờ, nhìn thấy khuôn mặt không được vui tươi cho lắm của đại đội phó, Trọng
thông cảm liền. Người mà, ai chả vậy.
Đang còn phân vân thì Hoàng hỏi:
- Còn gì không Trung úy?
Trọng sực nhớ ra một chuyện, bèn nói:
- Bố trí xong, ông kiếm cho tôi một tiểu đội trang bị súng nhẹ để đi theo tôi.
Tôi muốn xuống dưới làng Thượng "thăm dân tình" một chút.
Tuy chỉ thị của Trung Đoàn Trưởng rõ ràng như vậy nhưng Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng
là một cấp chỉ huy quyền biến và táo bạo, đã tìm ra cho mình một quyết định
riêng. Cọp đen này chẳng chơi gác ai cả nhưng ai chơi gác Cọp Đen thì không được.
Người ta cấm lính không được vào làng nhưng chẳng ai có thể cấm một con chiên
bước vào nhà thờ. Nhà Chúa luôn luôn mở rộng cho tất cả mọi người dù người đó
là người Tây, người Thượng hay là người Việt Nam. Là người công giáo, chàng quyết
định đi thăm ông cha Tây một lần cho biết mặt một người đã từng làm rúng động
"cơ quan" quyền lực cao nhất của miền Nam Việt Nam là Dinh Độc Lập.
Hoàng lại xoay người bỏ đi. Trọng nhìn theo cho đến khi bóng Hoàng chìm xuống
dưới đồi, suy nghĩ vu vơ...
Trời hôm nay đẹp quá, chỉ lác đác vào cụm mây mỏng trên cao, khí trời lành lạnh
của tháng 12 và ánh nắng vàng yếu ớt của vùng trời cao nguyên làm tâm hồn người
lính trẻ xa nhà cảm thấy ngất ngây. Đời đẹp như thế này, giang sơn cẩm tú như
thế này mà sao nước mình cứ mãi điêu linh nhỉ? Trọng bất giác chợt nhớ đến thân
phận mình, thân phận của những người chiến binh như chàng...
Đi một vòng kiểm soát hầm hố của lính tráng và lấy mấy điểm "hoả tập tiên
liệu" để báo về trung đoàn xong, Trọng trở về lều chỉ huy ngồi xuống trên
một khúc cây, đốt điếu thuốc, nhìn xuống khu thung lũng trước mặt. Xa xa dưới
chân chàng là hình ảnh mờ mờ của mấy chục cái chòi thượng từ lâu vang danh là
"bất khả xâm phạm". Vài cụm khói nhẹ nhàng vươn lên, hiền hoà, bình lặng.
Khung cảnh đẹp và trầm hùng như một bức tranh.
Trọng ngồi im, say sưa nhìn ngắm cái làng với nhiều chuyện bí mật như một con cọp
ngồi nhìn một đối thủ để tìm thế tấn công...
Người hạ sĩ mang máy truyền tin của Trọng cũng ngồi xuống bên cạnh ông thầy,
cũng mồi một điếu thuốc, cũng nhìn về cùng một hướng với Trọng. Rồi tự nhiên, hắn
thở dài:
- Hôm nay là sắp tới "Nô Ên" rồi đó trung úy.
Dù trong thâm tâm đã biết là sắp đến Noel, Trọng cũng thấy nhói trong tim khi
nghe người lính nói vậy. Bố khỉ, vậy là thêm một cái Noel nữa trong rừng thẳm.
Trọng không còn nhớ đây là cái Noel thứ mấy mình không được đi lễ nửa đêm,
không được diện đồ đẹp để đi chơi với đào, không được ăn Réveillon, không được
đủ thứ...
Trọng chợt nhớ đến mùa Noel năm xưa, lúc chàng từ giã phố phường, Phượng và tuổi
học trò yêu dấu để lên đường đi lính.
Nghĩ đến Phượng, chàng nhăn mặt lại như vừa bị ai đấm vào bụng một quả thôi
sơn. Trọng thò tay vào túi áo, tìm gói thuốc...
Bàn tay thọc sâu trong túi áo jacket để tìm cái hộp quẹt, Trọng chợt rờ thấy
cái nanh heo rừng của Phượng tặng ngày nào...
Hai người quen nhau lúc còn đi học. Tuy chưa bao giờ giờ cầm tay nhau để thổ lộ
tâm tình nhưng cả hai đều biết trời sinh hai đứa để... cho nhau. Đã có một thời
Trọng ngây ngô nghĩ rằng mình sẽ... chết nếu thiếu Phượng. Ngược lại, Phượng
cũng đã nhiều lần nói với Trọng như vậy. Dĩ nhiên, hồi đó hai người còn trẻ...
Rồi Trọng thi rớt tú tài II. Phượng khóc đến sưng mắt. Trọng miệt mài mấy tháng
học lại bài để thi lần hai nhưng vẫn rớt như thường. Phượng linh cảm được chuyện
gì không hay, ốm nặng.
Trọng bắt đầu biết uống rượu vào buổi tối hôm đi coi bảng. Chàng lờ mờ nghĩ ra
rằng cuộc đời mình kể từ hôm nay sắp bước vào một khúc rẻ quan trọng. Như nhiều
người... bình thường khác, chẳng ai muốn bỏ cảnh hậu phương ấm êm để lăn mình
vào lửa đạn và sương gió làm gì. Nhưng Trọng nghĩ, nếu mình không được hoãn dịch
thì đã làm trai sinh nhằm thời loạn, cũng nên mặc áo nhà binh một lần để làm
tròn bổn phận. Chưa chắc đi lính đã là đường cùng...
Vì vậy, sau một tuần lễ nằm dài ở nhà dấu kín cái bản mặt "thi rớt"
cho thiên hạ khỏi thấy, Trọng đã làm quen được và chấp nhận số phận của mình.
Xuất hiện trở lại, chàng đến nhà thăm Phượng trước tiên.
Người làm Trọng ngạc nhiên đầu tiên là bố Phượng. Ông nhìn Trọng bằng một cặp mắt
khác xa lúc Trọng chưa thi rớt. Không thể đoán được nhưng Trọng lờ mờ linh cảm
rằng ông ta đã đặt rất nhiều hy vọng nơi Trọng ở trường học. Ông ta mơ tưởng gì
nơi mình Trọng không biết nhưng chắc chắn hình ảnh đó phải lớn hơn hình ảnh một
thằng lính bộ binh nghèo đói, sống nay chết mai.
Cái giá của sự thi rớt quả thật là kinh khủng...
Phượng khuyên Trọng nên chạy giấy tờ giả để học thêm. Trọng lắc đầu vì chàng biết
có muốn chạy cũng chẳng có tiền. Phượng lại đề nghị Trọng đi lính nghĩa quân
hay lính... cảnh sát. Trọng chỉ lắc đầu cười cười. Phượng lại khóc đến sưng cả
mắt...
Ngày chia tay, Phượng bố trí để gặp Trọng một mình nơi nhà con nhỏ bạn. Nàng muốn
tặng Trọng cái quý nhất của đời nàng là thân xác nàng nhưng không hiểu vì sao
Trọng đã từ chối món quà vô giá đó.
Trọng nhất định không phải là thánh nhưng từ thuở nhỏ, bản tính của chàng luôn
luôn như vậy. Quan niệm sống của chàng là sống trọn vẹn, vui trọn vẹn. Sung sướng
gì khi được vui vầy một cách... chụp giựt trong chốc lát để rồi có thể ngày mai
có thể sẽ hối hận...
Hai người nằm im bên nhau, Phượng cứ lập lại câu nói: "Ngày mai anh đi rồi,
đi thật rồi..." Mắt nàng lúc nào cũng rướm lệ...
Trọng để một tay cho Phượng dùng làm gối, tay kia đốt hết điếu thuốc này đến điếu
thuốc khác. Mắt chàng ngây dại nhìn lên khoảng trống trên trần nhà.
"Ngày mai anh đi rồi, đi thật rồi!" Sao tiếng Việt lại có những câu
đơn giản và buồn đến nát người như thế nhỉ, Trọng suy nghĩ...
Rồi Phượng hỏi:
- Sao anh không muốn... Phượng? Phượng dâng hiến cho anh mà!
Trọng xoay người, nhìn thẳng vào mắt Phượng, lời nói như muốn tắt nghẹn:
- Anh cám ơn Phượng nhưng anh không muốn lợi dụng Phượng!
- Nhưng Phượng yêu anh, Phượng muốn cho anh! Mai anh đi rồi.
Trọng lắc đầu, khép đôi mắt lại, lòng chùng hẳn xuống làm như sắp khóc:
- Ừ mai anh đi, nhưng làm vậy có ích gì đâu Phượng? Lỡ có chuyện gì cả ba đứa
mình đều khổ.
Nghe Trọng dùng chữ "Ba đứa mình", Phượng không hiểu được nhân vật thứ
ba là ai. Nhân vật ấy chưa hề có, chưa bao giờ xuất hiện hay là ai Phượng không
biết nhưng cũng chẳng thèm hỏi.
Trọng dụi điếu thuốc, kéo Phượng sát vào người mình. Chàng vừa vuốt tóc Phượng
vừa nói nhỏ:
- Đừng nói chuyện "đi" nữa Phượng, chuyện "đi" nghe buồn
quá. Mình nói chuyện "về" đi.
- Ừ! Vậy chừng nào anh về?
Trọng nghẹn họng. Khoá sĩ quan Thủ Đức cộng thêm khoảng thời gian ở Quang Trung
và các trung tâm chờ đợi sớm gì cũng mất hết một năm. Một năm tức 12 tháng tức
365 ngày vắng bóng Phượng, chỉ nghĩ đến đó thôi Trọng đã thấy tái tê người.
Mình mà còn thấy tái tê thì Phượng chịu gì nổi? Trọng đành phịa:
- Vài tháng.
- Vài tháng là mấy tháng hở Trọng?
- Nhiều nhất là 6 tháng.
Phượng ụp mặt vào ngực Trọng, giọng nàng lạc đi:
- Trời hỡi trời, tôi làm gì cho hết sáu tháng trời không có Trọng đây hở trời?
Trọng mím chặt môi. Một cảm giác vừa sung sướng vừa buồn phiền dâng lên trong
lòng chàng. Sung sướng vì câu nói ấy chứng tỏ nàng yêu mình hơn chàng nghĩ. Buồn
phiền bởi Trọng biết 6 tháng sau chàng cũng chưa thể trở về được.
Rồi Trọng nghe được được tiếng khóc nho nhỏ của nàng...
Không có can đảm nằm nghe Phượng khóc, Trọng vỗ vào vai Phượng mấy cái rồi rút
tay ra...
Như một cái máy biết cử động, chàng từ từ đứng dậy mở cửa sổ nhìn ra ngoài.
Thành phố Nha Trang vừa lên đèn. Tiếng xe cộ ồn ào ngoài đường vọng vào phủ kín
tâm hồn Trọng. Nghĩ ra một điều gì, chàng nhăn mặt lại. Lạ thật, bao nhiêu năm
qua sinh ra và lớn lên ở thành phố này, Trọng có bao giờ thèm để ý đến những thứ
tiếng động ồn ào này. Chiều hôm nay, tiếng động vô tri mà sao nghe thấy nó dễ
thương chi lạ. Dễ thương và đầm ấm lạ lùng.
Trọng suy nghĩ rồi bỗng gật gù cái đầu. Thì ra là hễ cái gì mình sắp mất cũng đều
trở nên quý giá cả. Từ cảnh vật cho đến con người...
Trọng bắt chiếc ghế kê gần cửa rồi ngồi im nhìn ra ngoài đốt thuốc lá. Suốt từ
sáng đến giờ chàng đã đốt hết năm gói rồi mà sao vẫn hút được mới là kỳ.
Phượng cũng đã thôi khóc, đứng im sau lưng Trọng không biết từ lúc nào. Nàng nắm
chặt lấy tay Trọng như cố truyền vào đó tất cả những nhớ thương của mình trước
giây phút chia tay. Trọng quay lại, cố điểm một nụ cười, nhìn thật gần vào đôi
mắt long lanh của Phượng:
- Đừng buồn quá Phượng, em phải nhìn vấn đề một cách lạc quan. Biết đâu chừng
trong lúc khám sức khoẻ, người ta sẽ tìm thấy một cái bệnh gì đó trong người
anh rồi đuổi cổ anh về, không cho đi lính nữa.
Phượng hớn hở:
- Anh mà bệnh gì? Nghĩ ra một chuyện, Trọng bật cười lên:
- Anh nghĩ chắc anh bị bệnh... bất lực.
Phượng có cảm giác là Trọng chỉ đùa với mình, nhưng vẫn nuôi một hy vọng nhỏ
trong lòng, hỏi dồn dập:
- Anh bị bất lực thật không, hay anh chỉ đùa?
- Thì em nghĩ xem, nằm gần bên em hấp dẫn và ngon lành như thế kia suốt cả một
buổi chiều mà anh không thèm sơ múi gì hết, cái này không gọi là bất lực thì gọi
là gì, hì... hì...
Đang buồn nẫu người mà Phượng cũng phải phì cười, đưa tay đấm vào vai Trọng:
- Gọi là... ngu. Anh này hay thật, chết đến nơi mà vẫn còn đùa được...
Có lẽ Phượng yêu Trọng cũng ở cái tính lạc quan yêu đời và hay tếu này.
Trọng tiếp:
- Đùa thôi! Nhưng biết đâu chừng, ra trường rồi anh sẽ được đổi về lại Nha
Trang. Hai đứa mình lại xum họp mấy hồi...
Phượng lại cười. Cái nhìn lạc quan thứ hai này coi có thể dễ chấp nhận hơn cái
bệnh bất lực vớ vẫn. Ừ, Phượng nghĩ, tại sao mình không nhìn vấn đề một cách lạc
hơn nhỉ? Nước mình bây giờ mỗi ngày có hàng trăm ngàn người ra đi, đâu phải ai
cũng chết hết.
- Từ lúc nhỏ, anh học được một cách sống rất hay. Đó là trong bất cứ một hoàn cảnh
nào, mình cũng phải tìm cách nuôi cho mình một hy vọng. Ngày nào con người còn
nuôi hy vọng, ngày đó cuộc đời còn đáng sống, đáng phấn đấu...
Hai người ngồi nói chuyện mãi rồi cũng đến lúc chia tay. Phượng cầm hai tay Trọng,
run run nhét vào đó một vật nhỏ bọc khăn mu soa. Trọng dở ra xem, thì ra cái
nanh heo rừng. Không biết cái nanh đã cũ bao nhiêu năm nhưng đã lên nước rất
bóng loáng.
- Em đào đâu ra được thứ này vậy?
- Nanh heo rừng đó, linh lắm, của bố. Người ta nói ai đeo nanh heo rừng thì đạn
sẽ bắn không trúng. Ngày xưa bố đi lính, nhờ nó mà đánh bao nhiêu trận không bị
hề hấn gì.
Trọng cười, chàng chẳng bao giờ tin những cái vớ vẫn như vậy nhưng cũng hít hà
ra vẻ mừng rỡ để Phượng vui lòng.
- Bố cho anh à?
Phượng lắc đầu, cười:
- Không, Phượng... lấy trộm. Cái này để trên bàn thờ, qúy lắm, sức mấy mà bố
cho. Phượng lấy đại để cho anh, mong anh được bình an như bố...
Rồi Phượng khóc. Mới đầu chỉ ấm ức nhưng rồi nàng khóc oà lên. Suốt đời Trọng,
chàng chưa bao giờ nghe nhiều tiếng khóc bằng buổi tối hôm đó...
Bây giờ, ngón tay chạm chiếc nanh heo rừng, hình ảnh Phượng ngày nào lại trở về
trong trí chàng...
Dặn dò những điều cần thiết với Hoàng xong, Trọng dẫn lính xuống ngọn đồi, tiến
về phía làng Thượng. Chàng ngạc nhiên khi nhận thấy lác đác đó đây trên con đường
đất đỏ có những đống đá xanh mới tinh vun cao. Tại sao lại có những đống đá
xanh mới tinh chất bên đường như thế này, Trọng nhíu mày suy nghĩ.
Tới gần hơn chút nữa, Trọng nhận ra một ngôi thánh đường vươn hẳn lên giữa những
dãy nhà sàn lụp xụp. Tuy nhà thờ được cất bằng gỗ và gạch sơ sài nhưng nhìn rất
đẹp mắt. Nhất là cây thánh giá trên nóc giáo đường. Nó to lớn vĩ đại như muốn
ôm ấp hết cả cảnh núi rừng thanh tịnh ở chung quanh vào lòng mình.
Đang còn suy nghĩ thì Trọng nghe được tiếng đàn hát nho nhỏ vọng ra từ trong
làng. Tới gần hơn nữa, Trọng nhận ra tiếng hát đó là của một ban hát hợp ca, và
hình như phát ra từ một căn nhà lợp mái tranh ở bên cạnh ngôi giáo đường, gần
phía ngoài làng.
Tiếng hát vang lên khi trầm lúc bỗng, khi nhẹ nhàng, lúc dồn dập giữa một nơi đồng
không mông quạnh làm mọi người đều thấy thích thú. Thật là một bất ngờ thú vị.
Ai lại ngờ có thể nghe được những tiếng hát, mà lại là tiếng Việt Nam phát ra từ
trong một buôn Thượng. Bài hát này Trọng nghe thấy quen quen nhưng nghĩ mãi
không ra. Rõ ràng điệu nhạc là một điệu giật gân, hình như "cha cha
cha" thì phải nhưng lời hát lại là một bài hát đạo. Trọng nghe câu được
câu mất nên càng để ý lắng tai nghe...
Cách cổng làng chừng vài trăm thước, Trọng cho lính dừng bước, đứng yên quan
sát một vòng. Và những điều Trọng nhìn thấy và ghi nhận từ sáng đến giờ chứng tỏ
tình báo của sư đoàn nói đúng. Việt cộng rất có thể kiểm soát ngầm được khu
làng này. Trong khi đó, quân ta bị bó tay.
Giờ này làng có vẻ vắng, hình như người lớn đi làm rẩy chưa về. Một đám con nít
trần truồng đang nô đùa, nhìn thấy người lạ mặt liền ùa tới nhưng không dám ra
khỏi làng, chỉ đứng xa xa ngó. Đó đây, một vài con trâu con bò nằm im lặng một
cách nhàn nhã.
Trọng vẫy tay chào bọn con nít rồi quay sang bảo người tiểu đội trưởng đi theo
mình:
- Như tôi đã nói hồi sáng với anh em, cái làng Thượng này không giống bất cứ
cái làng nào mà mình đã hành quân qua. Các anh mà làm bể một viên gạch thì ngày
mai nó kiện tới... Dinh Độc Lập. Bây giờ mấy anh ở ngoài này... chơi, để một
mình tôi vào làng thăm cha xứ.
Người tiểu đội trưởng nhìn Trọng ái ngại ái ngại:
- Trung úy nên dắt theo vài người, lỡ có chuyện gì...
Trọng cười, ráng pha trò một câu cho không khí bớt căng thẳng:
- Ông có nghe được tiếng hát lúc nãy không? Chẳng có gì đâu. Việt Cộng đâu có
hát hay như vậy được...
Nói xong Trọng cởi giây đeo súng Colt của mình đưa cho người hạ sĩ quan mang
máy:
- Ông trực máy ngoài này, có gì chạy vào kêu tôi. Mấy ông cứ tản mát ra đi ngắm
trời ngắm đất cho vui, nhưng phải luôn luôn đề cao cảnh giác và nhớ kỹ lời tôi
nói, không được động đến một ngọn cỏ của cái làng này.
- Trung úy lặn cây Colt theo cho chắc ăn trung úy.
- Không! Khách lạ đến thăm một nơi mình chưa quen biết mà trang bị súng ống đến
tận răng thì khó mà gây được cảm tình. Hơn nữa, nếu có Việt Cộng trong làng thì
một cây Colt cũng không bắn lại chúng nó... Rồi bây giờ anh em tản mác ra đi,
nhớ đừng có gây sự với ai cả...
Trọng xoay người, ước lượng khoảng cách từ chỗ chàng đứng đến căn nhà tranh có
tiếng hát phát ra rồi chầm chậm bước tới. Chàng ráng làm ra vẻ nhàn nhã tĩnh
táo như một người du khách đi dạo nhưng tim vẫn đập lên từng hồi, mồ hôi ở trán
và ở cổ rịn ra. Trọng ráng không nghĩ đến cảnh ở một căn nhà sàn nào đó, tự
nhiên mọc ra một... họng súng A.K., nhắm vào người chàng nổ ròn rã. Chết mà
không cầm được cây súng trong tay để bắn lại kẻ thù gọi là chết ngu. Hình ảnh
đó làm Trọng giựt mình. Mình ngu thật, hết chuyện làm rồi tại sao lại quyết định
khơi khơi vào đây một thân một mình như vậy? Tại sao mình lại có thể ngu dại
như thế nhỉ?
Hay bây giờ rút lui cũng còn kịp. Bước chân Trọng trở nên chậm lại với ý nghĩ
này. Nhưng đã mang danh là Cọp Đen, ai lại bỏ cuộc nửa chừng như vậy. Lính
tráng sẽ đồn rầm lên là "Ông thầy lạnh cẳng, đi nửa chừng đổi ý, không dám
vô làng..." Trọng hiểu chuyện mua danh ba vạn bán danh ba đồng xảy ra rất
thường. Nhưng làm người, ai lại chẳng sợ chết...
Chàng bị dằn vặt giữa hai quyết định không chọn được nhưng cặp chân vẫn từ từ cất
bước. Những bước chân nặng chĩu đúng nghĩa..
Ngay lúc ấy, từ căn nhà mà chàng đang lấy hướng đi tới vẳng ra tiếng hát, âm
thanh huyền bí quyến rũ và an hòa như một điệu nhạc đến từ cõi trời cao thăm thẳm:
"...Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm..."
Tự nhiên, Trọng thấy lòng mình trở nên nhẹ nhỏm. Một niềm hạnh phúc lâng lâng
không cắt nghĩa được từ đâu phủ kín trái tim chàng. Trọng thấy ngất ngây trong
tiếng nhạc, chân cất bước mạnh dạn, chẳng còn thấy e dè sợ hãi gì cả...
Càng tới gần, tiếng hát càng trở nên rõ ràng, thanh thoát...
Và Trọng chợt khám phá ra vì sao tiếng hát đã làm cho chàng lấy được sự tự tin,
sự bình an trong lòng. Đây là bài hát "Kinh Hoà Bình" của thánh Phan
xi Cô mà thuở nhỏ chàng rất thích. Mỗi lần đi lễ nghe người ta hát bài này,
lòng Trọng luôn luôn như muốn chảy ra...
Rồi Trọng nghĩ tiếp, quái lạ, bài này là một bài hát chậm, rất chậm, không hiểu
ai lại biến chế để hát nhanh như vậy. Hay cả nước bây giờ đang hát mau như vậy
cũng nên, Trọng suy nghĩ. Có lẽ Lâu quá mình không đi nhà thờ nên không biết đến
những thay đổi...
Trọng đã đứng trước căn nhà phát ra tiếng hát mà không ai hay biết. Từ ngoài
nhìn vào, chàng nhìn thấy một người mặc áo chùng đen xây lưng cầm cây đờn đứng
giữa một đám thanh thiếu nhiên đứng ngồi ngổn ngang. Trọng lặng thinh theo
dõi...
- Nào bây giờ chúng mình vô lại nhé, nhớ nghĩ một temp ở chỗ đó chỗ đó ... Một
hai ba bốn năm... một... Lạy chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự
chúa trong mọi người... Chát chát... chình chình chình...
Trọng cười. Chàng đã đoán không sai. "Chát chát chình chình chình" là
điệu cha cha cha. Tiếng hát tiếp tục vang lên dồn dập:
"...để con đem tin kính vào nơi nguy nan đem trông cậy vào nơi thất vọng..."
Trọng đứng ngây người giữa trời. Gió cao nguyên của buổi trưa mùa đông thổi vi
vu nhẹ nhàng như quyện với tiếng hát để phủ kín lấy người chàng, thấm sâu vào
trong từng thớ thịt, từng khúc xương, từng tế bào. Một bài hát chậm hát mau mà
không ngờ hay như vậy làm lòng chàng như bay vút lên cao...
Tự nhiên, Trọng thấy mình không còn là một Cọp Đen lừng danh đánh giặc tới nhất
của sư đoàn 23 bộ binh nữa mà là một cậu học trò Nguyễn Văn Trọng bé bỏng ngày
nào của thuở học trò, của những ngày xanh vô tội, của những ngày quê hương còn
thanh bình yên ấm.
Tiếng hát lại vọng ra nhịp nhàng, ấm cúng:
"...để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu..."
Bị lôi cuốn bởi tiếng hát, Trọng từ từ tiến tới đứng sát bên cửa lúc nào mà
không hay. Chàng ngạc nhiên khi nhìn thấy người mặc áo chùng đen là một linh mục
người Việt Nam rất trẻ, chắc chỉ hơn chàng chừng 5 tuổi là cùng...
Vậy còn ông cố đạo Tây khó tánh đã làm điên đảo Dinh Độc Lập như lời ông trung
đoàn trưởng mô tả đâu rồi nhỉ? Trọng thấy mừng vì mình đã quyết định một thân một
mình vào đây. Ít nhất, cho đến giờ phút này, chàng thấy làng này cũng bình thường
như đa số làng khác...
Nghĩ đến người linh mục trẻ tuổi ở một xứ đạo người Thượng hẻo lánh, Trọng tự
nhiên thấy thương ông ta. Trẻ tuổi... hát hay như vậy mà phải chôn đời mình ở một
nơi như thế này thì chắc là buồn lắm. Trọng nhớ đến cũng hình ảnh này của các
ông cha khác nơi những Vương cung thánh Đường nguy nga đồ sộ, với những ca đoàn
viên ăn mặc sang trọng và đẹp như tiên nữ. Những tiên nữ đi tập hát có tài xế
chở đi bằng xe Mercedes, xe Hoa Kỳ mới tinh bóng lộn...
Hết bản nhạc, biết có khách đứng ở ngoài, người linh mục nói vài điều với các
em ca đoàn rồi bước ra tiếp Trọng. Nụ cười chân thật tươi tắn của vị linh mục nở
dưới gọng kiếng trắng dày cộm làm Trọng có cảm tình ngay từ giây phút đầu tiên:
- Chào ông, ơ xin lỗi, chào Trung úy! Tôi là cha Thanh.
Còn biết gọi mình là trung úy thì chắc chưa đến nỗi nào. Trọng đứng nghiêm,
chào rồi đưa hai tay bắt tay Cha Thanh:
- Kính chào cha, con tên là Trọng, cha cứ gọi là Trọng. Ca đoàn của cha hát hay
quá.
Cha Thanh cũng đưa hai tay ra bắt lấy tay Trọng:
- Anh quá khen, tôi ráng tập cho kịp để chúng nó hát lễ Noel đấy mà.
Trọng dùng bài hát làm đề tài để bắt chuyện:
- Thưa cha lúc nhỏ con đi nhà thờ, cũng nghe hát bài này hoài nhưng người ta
hát... khác.
Cha Thanh bước ra khỏi nhà, cười hềnh hệch sảng khoái, rất tự nhiên:
- Anh cũng có đạo à? Thế thì tốt quá. Anh nói đúng, bài "Kinh hòa
bình" đúng ra phải hát chậm nhưng các em đề nghị "phan ta di" ra
như vậy. Tôi hát thử thấy hay nên tập cho các em hát luôn.
Cha Thanh cởi mở và hồn nhiên thật. Mới nói chuyện mà chàng thấy như hai người
đã quen nhau lâu lắm rồi. Trọng cười, hỏi tiếp:
- Cha làm vậy không sợ mất vẻ nghiêm trang à?
Cha Thanh lắc đầu:
- Thiên Chúa quyền uy cao cả, ngài không chấp nhất những chuyện nhỏ mọn.
- Cha hút thuốc?
Cha Thanh tỉnh bơ đưa tay rút một điếu thuốc do Trọng mời, khum người mồi lửa:
- Cám ơn anh. Sáng giờ cũng đang thèm thuốc.
- Cha "đóng" ở đây lâu chưa?
Cha Thanh cười:
- Đúng ra xứ đạo này do một ông cha người Pháp trông coi. Ông ta về Pháp nghĩ lễ
hai tháng nên tôi được cử về đây tạm thời thay thế. Nhà xứ tôi cũng ở đây không
xa, trong thị xã Kon-Tum.
Mặt Trọng trở nên hớn hở. Thì ra vậy. Một thắc mắc trong đầu Trọng đã được giải
quyết thỏa đáng. Cha Tây khó tính vắng nhà, cha Việt Nam... dễ thương thay thế
tạm. Vậy thì mình phải khai thác mới được.
Như đọc được những ý nghĩ trong đầu Trọng, cha Thanh cười hỏi:
- Anh đến đây chơi hay có việc gì không?
Trọng không biết trả lời sao. Khó nói quá. Chẳng lẻ lại nói huỵch toẹt là cha
biết chúng nó giấu súng ở đâu không, hay làng này có chứa thằng Việt Cộng nào
không?
Cha Thanh biết Trọng đang bối rối, bèn hỏi:
- Anh uống cà phê? Nếu rảnh mời anh lên nhà ngủ, tôi mời anh một ly cà phê,
mình nói chuyện chơi...
Còn gì bằng, Trọng hân hoan nhận lời.
Đám thanh thiếu niên đoàn hát bây giờ đã ùa ra ngoài. Chúng nó khoảng 10 đứa. Một
nửa là Việt Nam, một nửa là Thượng. Trọng để ý thấy đám thiếu niên người Thượng
ăn mặc bảnh bao hơn đám Việt Nam nhiều. Đứa nào cũng quần jean áo nhập cảng từ
ngoại quốc, còn Việt Nam chỉ mặc quần đen nội hóa với những chiếc áo trắng đã
ngã màu.
Cha Thanh bảo chúng bằng tiếng Việt trước rồi phụ đề tiếng Thượng sau:
- Cha có khách tới bất ngờ phải tiếp. Chúng con chuẩn bị xe... bò để chờ cha.
Lát nữa cha xuống chúng mình đi.
Cha xứ Tây ở một căn nhà gạch rất tiện nghi với phòng ăn, phòng ngủ và cầu tiêu
đầy đủ.
Trọng ngồi nơi bàn ăn chờ cha Thanh pha cà phê. Nhìn đồ đạc bày biện trong
phòng, Trọng cảm thấy làm người... Tây phương sướng thật. Không, đúng hơn phải
nói làm dân của một nước văn minh sướng thật.
Hai người ngồi trong phòng ăn uống cà phê nhìn ra ngoài. Trọng làm một hớp cà
phê:
- Ở trong rừng mà có được một ly cà phê ngon như thế này thì thật là hạnh phúc.
- Cà phê Ban Mê Thuột nổi tiếng thế giới. Tôi ghiền cà phê này đến độ hồi còn học
ở bên Pháp, mẹ tôi cứ vài tháng phải gởi sang cho tôi chừng năm ký...
Lại thêm một yếu tố mới làm Trọng ngạc nhiên, chàng bám ngay đề tài:
- Cha đã du học ở Pháp?
- Gia đình tôi gởi tôi đi du học rồi tôi được ơn kêu gọi bên đó. Chịu chức xong
tôi xin về nước để phục vụ...
Nói đến đó, cặp mắt của cha Thanh như thoáng lên một chút buồn phiền. Trọng
không hiểu vì sao nhưng trong lòng thấy hơi bối rối. Chàng chẳng lạ gì tinh thần
thiên cộng của cái đám sinh viên quốc gia được bố mẹ gởi đi du học ở ngoại quốc.
Sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, lại ra đi quá sớm, họ dễ bị đạo binh tuyên
truyền của Cộng Sản đầu độc. Cha Thanh có phải là một trong cái đám này không,
Trọng tự hỏi? Tại sao lại "tình nguyện xin về nước phục vụ?", rồi lại
phục vụ đúng ngay trong một cái làng Thượng nổi tiếng là "Việt Cộng"
này. Tuy có cảm tình với cha Thanh nhưng chàng cũng thấy hơi ngờ ngợ trong người.
Giọng của Trọng có vẻ hơi bớt thân mật đi chút ít:
- Bên Pháp vui không cha?
- Nếu như đi du lịch chừng vài tuần thì nơi nào cũng vui cả. Nhưng ở lâu rồi
thì anh mới thấy là không chỗ nào bằng quê mình được, không người nào bằng người
mình được, không có tình thương nào bằng tình thương Việt Nam được...
- Ý con muốn nói, thưa cha, là ít nhất, bên đó họ thanh bình, không có chiến
tranh. Sống trong một nước hoà bình chắc sướng lắm...
- Tôi nghĩ là hòa bình hay chiến tranh bắt đầu từ ở con người. Con người gây ra
được chiến tranh thì con người cũng làm được hòa bình. Một con người hoà bình sống
giữa chiến tranh vẫn thấy mình an bình. Ngược lại, một con người háo chiến sống
giữa một miền đất hòa bình vẫn không có hòa bình.
Bây giờ thì Trọng thấy khó chịu thật. Giọng điệu này đúng là giọng điệu tuyên
truyền ru ngủ mà bọn Cộng Sản thường dùng. Ông cha thiên Cộng này muốn chửi bọn
chúng mình là háo thắng đây chăng? Sao ông ta không biết là nếu Việt Cộng rút
quân về Bắc, đừng xâm lăng nữa thì đất nước sẽ thanh bình liền...
Nghĩ vậy nhưng Trọng biết chuyện làm của mình. Mình không đến đây để cãi lý hay
làm mất lòng một ông nhà tu thiên Cộng trẻ tuổi từ Pháp mới về. Mục đích của
chàng là tìm hiểu về cái làng này càng nhiều càng tốt.
Nhìn mặt Trọng, cha Thanh chợt hiểu chàng có điều gì bất mãn nhưng chưa tiện hỏi.
- Hòa Bình, ý con muốn nói là người ta không bị chết bất tử, không bị cháy nhà
bất tử, không bị pháo kích bất tử như cái thành phố Kon Tum lâu lâu chẳng biết
chúng nó đặt súng ở đâu mà cứ pháo vào thành phố hoài, chúng con kiếm mãi không
ra...
Cha Thanh nhìn đăm đăm vào Trọng một lúc rồi gật gù, cười:
- Tôi đã đoán là anh đến đây vì có một mục đích, nhưng không sao, khi nào có dịp
tôi sẽ cắt nghĩa cho anh hiểu...
Cha Thanh rót thêm cà phê cho Trọng:
- Anh uống thêm cà phê! Tôi ở đây ít khi gặp người Việt Nam cùng tuổi để tâm sự.
Người Việt chỉ có mấy đứa con nít trong hội hát, người lớn toàn là Thượng. Họ
nói tiếng Việt rất ít, chỉ nói tiếng Thượng và tiếng Pháp...
Thì ra đã làm người, ai cũng có tâm sự, ai cũng biết vui biết buồn. Cha Thanh
cũng không tránh khỏi định luật này. Nói chuyện thêm một lúc, thấy cha Thanh có
vẻ thành thật cởi mở, Trọng hỏi:
- Thưa cha, chẳng dám dấu cha, đúng như ý cha đoán lúc nãy, con muốn hỏi thăm
cha một điều...
Hình như đã chờ câu hỏi này từ lâu, cha Thanh cười:
- Anh nói đi, xem thử có đúng như những gì tôi nghĩ không?
- Thưa cha, cha ở xa về không biết, cái làng này xưa nay nổi tiếng là một làng
"bất khả xâm phạm."...
Cha Thanh cười:
- Bất khả với ai chứ với anh thì chịu. Nếu bất khả thật thì làm sao giờ này anh
vào đây để nói chuyện với tôi được?
- Thưa cha, con không biết phải giải thích thế nào nhưng cái làng này có một ông
cha Tây khó chịu lắm... Con không muốn đem vấn đề quân sự ra nói chuyện với cha
nhưng cha nghĩ xem, Việt Cộng cứ lâu lâu kéo súng về đặt gần làng để bắn đi mà
mình không làm gì được. Cha nghĩ xem, họ đã ở trên đất nước mình, chẳng giúp gì
được cho mình lại còn đi che chở cho giặc... Cha là người Việt Nam, con nghĩ
cha có thể thông cảm được với con...
Trọng nhìn cha Thanh hồi hộp chờ câu trả lời. Giọng cha Thanh nghiêm trang:
- Vậy theo ý anh, chúng tôi phải làm gì?
Hai chữ "chúng tôi" xác định một sự "đoàn kết khắng khít" với
nhau mà Trọng rất sợ. Chưa kịp trả lời thì cha Thanh tiếp luôn:
- Trước hết, anh Trọng à, tôi xin xác nhận với anh là làng này không chứa Việt
Cộng. Tôi biết cha cố Pierre, ngài cũng không chứa Việt Cộng...
Trọng thấy nhẹ nhỏm trong người. Chàng biết cha nói thật.
- Ngược lại, nói anh đừng buồn, chúng tôi cũng không thể làm tay sai cho chính
quyền. Chúng tôi biết Việt cộng thường đem pháo về gần làng để bắn vào thành phố
nhưng chúng tôi không thể báo cáo việc này cho ai biết hết. Chuyện không phải của
chúng tôi, chúng tôi không để ý đến. Anh nên hiểu cho rằng, vấn đề ý thức hệ, vấn
đề quốc gia hay cộng sản không có trong đầu óc những người miền núi dốt nát
này. Đối với họ chỉ có vấn đề sống hoặc chết. Anh nghĩ xem, những người dân một
cổ hai tròng ở những vùng hẻo lánh như thế này không thể dứt khoát theo một bên
nào được. Theo quốc gia thì chết với Việt Cộng, mà theo Việt Cộng thì cũng chết
với các anh...
Cha Thanh nói đúng. Người dân ở những vùng xôi đậu luôn luôn chịu một cổ hai
tròng. Theo bên này thì chết với bên kia. Nếu mình không bảo đản được an ninh
cho họ 100 phần trăm thì cũng đừng mong có sự trung thành 100 phần trăm.
- Tôi cũng đã nghe được những lời than phiền của bên quốc gia mình về linh mục
Pierre, ngài hay kiện lên tới toà thanh La Mã những chuyện nhỏ nhặt không đâu.
Thật ra, anh phải hiểu cho rằng, sống ở một nơi xa ánh sáng văn minh thì đôi
khi cũng phải làm dữ một chút mới dọa được những ông tỉnh trưởng tham nhũng, những
cấp chỉ huy lính bê bối. Thành thật mà nói, những chuyện như thế làm sao tránh
được trong cuộc chiến....
- Thế Việt Cộng về bắn phá bậy bạ cha Pierre có kiện không?
- Kiện chứ! Kiện đứt đuôi con nòng nọc nhưng anh biết thế giới cộng sản mà.
Chúng nó che chở cho nhau không cần biết tốt xấu. Hơn nữa, hệ thống thông tin
tuyên truyền của cộng sản ở thế giới tự do rất mạnh, chúng có thể phủ đầu những
tin tức bất lợi cho chúng rất dễ dàng.
Trọng nghe đến đâu thì thấm đến đó. Cha Thanh mồi điếu thuốc, nhìn đồng hồ rồi
đứng lên hỏi:
- Anh nhìn tôi, anh có thể tin rằng một người như tôi, một người mà gia đình đã
bỏ cả quê hương, bỏ cả mồ mả tổ tiên để vào Nam tránh hoạ cộng sản, thì có thể
là một người bắt tay hay dung túng bọn cộng sản được không?
Trọng thấy phấn khởi trong lòng và biết là đã đến giờ mình phải ra đi. Chàng đứng
dậy, lắc đầu:
- Không bao giờ.
Cha Thanh cùng Trọng bước ra cửa:
- Cám ơn anh đã thông cảm cho tôi và quan trọng nhất, cám ơn anh đã có can đảm
vào làng để nói chuyện với tôi. Nghĩ cũng lạ, người ta cứ cho rằng làng này chứa
Việt cộng mà xưa nay chưa có một người lính nào dám vào làng này để tìm hiểu.
Anh vào đây rồi, anh có thấy một cây A.K. hay một cây B-40 nào giấu trong này
không?
Trọng cười:
- Con chỉ thấy... thánh giá và... ca đoàn.
Cha Thanh cười theo. Hai người đứng ngoài bãi cỏ, cha Thanh nói:
- Tôi muốn ở lại hàn huyên với anh lâu hơn nhưng có công chuyện phải ra ngoài
làng bây giờ, bọn nhỏ đang chờ. Anh còn đóng quân ở đây, thỉnh thoảng ghé thăm
tôi chơi.
Trọng móc bao thuốc lá mời cha Thanh một điếu rồi dúi nguyên cả gói còn lại vào
tay ông ta:
- Cha giữ lấy gói thuốc này mà hút, con còn nhiều.
Cha Thanh cầm bao thuốc lá, cười: -Trung úy muốn "mua chuộc" tôi à?
Trọng cũng đùa theo:
- Một trong những điều tâm niệm của người chiến sĩ quân lực VNCH là phải thương
dân, giúp đỡ dân và bảo vệ dân mà cha...
Hai cả người cùng cười rồi chia tay nhau.
Trọng bình thản bước từng bước một ra bìa làng, lòng thấy nhẹ nhỏm thư thái. Cuộc
mạo hiểm của Cọp Đen coi như thành công ngoài sức tưởng tượng. Lúc bắt đầu bước
vào đây, chàng chỉ dám bước vì tiếng hát, chẳng ngờ lại được gặp gỡ cha Thanh
và được hiểu thêm nhiều chuyện. Từ đây, cái nhìn của chàng về cái buôn thượng
vang danh... Việt Cộng này sẽ khác hơn.
Tới ngoài làng, Trọng cảm động khi nhận ra những ánh mắt lo âu của thuộc cấp.
Chàng cười xoà rồi dắt lính đi một vòng phía ngoài làng để nghiên cứu địa thế.
Chàng để ý gần làng có một con suối không lớn lắm nhưng sâu thăm thẳm, muốn leo
xuống phải khó khăn vô cùng. Đi hết một vòng quanh làng, trọng thấy tự tin hơn.
Địa thế như thế này thì chúng không thể kéo pháo về được, chỉ có thể đem súng cối
và hoả tiễn về bắn quấy rối. Cọp đen đứng trên một mô đất suy nghĩ. Cối thì cho
chúng mày bắn tới tết ông cũng cóc sợ, chỉ ngán chúng nó kéo hỏa tiễn 122 ly về.
Hỏa tiễn 122 ly là một thứ vũ khí khủng bố dân lành vì có tầm bắn xa, dễ cơ động
nhưng thiếu chính xác. Nhiều khi hỏa tiễn bay xa mục tiêu cả... chục cây số vì
dàn phóng được mấy ông chế ẩu tả cấp tốc bằng tre, cho nổ mười quả một lần để rớt
bừa bãi vào thành phố rồi bỏ chạy. Trọng đã từng nhìn thấy cảnh những em bé mất
đầu mất tay, những người dân lành vô tội bị chết thảm thiết vì những trái 122
ly này.
Trọng lấy bản đồ ghi chép và đánh dấu những chỗ cần thiết rồi dắt lính về. Trời
đã về chiều, gió cao nguyên bắt đầu thổi lồng lộng đem hơi lạnh từ trong núi
ra. Ngày đầu tiên như vậy coi như là thành công quá rồi. Trọng đếm từng bước một
trên con đường đất, suy nghĩ vu vơ...
"Vậy là sắp tới Nô Ên rồi trung úy," câu nói vô tình của người lính lại
trở về với Trọng. Phượng giờ này chắc đang dạo phố phường hay chuẩn bị bánh
trái để đón lễ giáng sinh sắp tới. Không biết nàng có nghĩ đến mình không nhỉ.
Quái lạ, sau mấy năm tưởng đã quên bẵng người con gái đó, không hiểu tại sao
hôm nay mình lại nghĩ đến nàng tới mấy lần. Trọng trầm ngâm suy nghĩ...
Thôi đúng rồi, mình từ giã nàng ra đi vào một mùa giáng sinh. Đúng một năm sau,
cũng vào mùa giáng sinh gió lộng như thế này, mình đã trở về...
Mắt chàng thấy cay cay. Phượng ơi Phượng, Phượng đâu hiểu anh vẫn còn yêu Phượng,
mãi mãi yêu Phượng như thuở nào trước khi anh đi lính...
Chuyện tan vỡ của hai người thật ra không biết phải đổ lỗi cho ai. Nếu có Phượng
tại đây, nàng sẽ nói là tại Trọng. Còn riêng Trọng, chàng nghĩ chính Phượng là
người... phải chịu trách nhiệm nặng nề.
Sau ngày từ giã nàng ra đi, những tuần lễ đầu, mỗi tuần Trọng đều viết cho Phượng
một lá thơ. Đó là những ngày còn nhàn nhã ở trung tâm tuyễn mộ nhập ngũ chưa
vào quân trường. Ở đấy, người ta cho các khoá sinh được sống một cuộc đời tương
đối thoải mái để làm quen dần với nếp sống nhà binh.
Hễ nhận được lá thơ nào là Phượng trả lời ngay lá thơ đó. Tình yêu con gái chan
chứa, nàng viết có khi dài đến 8, 9 trang giấy học trò.
Rồi Trọng vào quân trường Quang Trung, những lá thơ viết cũng vơi dần theo vì
chẳng có dư thì giờ. Thì giờ ngủ còn chưa có lấy thì giờ đâu để viết. Tuy
nhiên, Trọng cũng cố gắng mỗi tháng viết cho Phượng một lá.
Phượng là "gái bên song cửa" nên không thể hiểu được cái chuyện khó
khăn rất bình thường này của nhà binh. Nàng lại lãng mạng, đo tình yêu bằng những
lá thơ nên thấy tự ái mình bị va chạm nặng nề. Những lá thơ trả lời của Phượng
vì thế cũng lơi dần đi...
Rồi Trọng vào Thủ Đức, lò luyện thép gian khổ nhất và vĩ đại nhất của giống dân
da vàng thời đó, thì giờ càng trở nên eo hẹp. Thậm chí đến việc đi ăn và đi...
cầu mà cũng phải chạy vắt giò lên cổ thì làm gì có thì giờ ngồi viết thơ cho
Phượng.
Một ngày, Trọng nhận được lá thơ của mẹ già. Mẹ viết: "Hồi con mới đi, Phượng
ngày nào cũng đến chơi với các em con và thăm mẹ. Nhưng đã mấy tháng nay mẹ
không còn thấy Phượng đến nữa. Mẹ hơi lo xa một chút, con đừng buồn. Mẹ không
biết con có làm gì cho Phượng nó buồn không. Con ráng biên thơ thăm Phượng. Mẹ
qúy nó lắm, nó rất là dễ thương..."
Trọng đang ngồi ôm cây M-16 gác tuyến một buổi chiều sau giờ học, đọc thơ xong,
nhớ nhà, nhớ Phượng, bất giác hai hàng nước mắt rơi lả chả. Đồng thời, vốn là một
kẻ ngang ngạnh bất khuất từ lúc nhỏ, Trọng cũng thấy tự ái mình bị tổn thương
trầm trọng. Nếu người ta không còn yêu mình nữa thì thôi, mình không thể hạ
mình để xin xỏ tình yêu. Nhất là cái thứ tình yêu bạc bẽo chỉ có trên đầu môi
chót lưỡi kia...
(còn tiếp một kỳ)
Trường Sơn Lê Xuân Nhị