Bà Hishako ngồi trong một chiếc ghế khá to, chung
quanh thân hình mỏng manh, bé tí, của bà bao nhiêu là gối, chăn, chèn,
chắn để những cái xương của bà được bọc êm ái không chạm vào thành
ghế cứng. Bà nhìn qua khung cửa kính, mảnh vườn nhỏ cuối thu ngoài
kia đã bắt đầu trống trải, xơ xác, lá rụng hết rồi. Những cái cành
khẳng khiu vươn ra như những cánh tay gầy không mặc áo, chúng đang chờ
mùa đông tới.
Ông Kentaro chồng bà, ngồi trên một chiếc xe lăn, không
xa bà mấy. Tóc ông rụng gần hết, mấy sợi còn lại trắng như cước
dính sát vào da đầu. Cái kính ông đeo trễ xuống chỏm mũi, ông cũng
chẳng cần sửa lại. Ngoài kia có cái gì đáng ngắm đâu.
Mùa thu đã hết,
ông lẩm bẩm trong miệng. Bà không nghe thấy, mà thật ra bà cũng chẳng
để ý, ông nói đến lần thứ ba, bà mới nghe rõ, bà chỉ gật đầu đáp
lại.
Mùa thu đã hết, mùa phơi hồng cũng chấm đứt. Bà mơ
màng nhớ lại thời trẻ của hai ông bà. Chao ôi sao mà đẹp thế. Ông bà
có vất vả thật. Hết làm ruộng đến trồng rau, qua làm rau thì đến
đợt phơi hồng. Làm ruộng thì nhà cũng chỉ có ba sào, trồng rau thì
khoảng ba mươi chiếu (*), hồng thì nhà có năm cây cổ thụ, mỗi cây cho
từ hai trăm tới ba trăm trái. Ông bà
có việc làm quanh năm, nhờ thế mới có tiền cho ba đứa con ăn học. Bà
nhớ hồi nhỏ các con cũng phụ với ông bà xếp những trái hồng đã phơi
khô vào thùng để bỏ mối. Nói đến hồng bà lại nhớ hình ảnh ông lúc
còn khỏe, còn trẻ, một ngày ông hái cả ngàn quả hồng và ông luôn
luôn nhớ không bao giờ hái hết, phải chừa lại một ít quả trên cây như
một niềm tin cần thiết cho mùa thu hoạch năm tới được tốt đẹp,
(người Nhật gọi là Kimorigaki) và để cho những chú chim ruồi mejiro
có thức ăn trong mùa đông nữa. Bà nhớ là khi hai vợ chồng làm ruộng
hay trồng rau, luôn luôn phải để dành một luống không gặt hết lúa,
không cắt hết rau cho những con chim, con chuột đồng, con sâu, cái kiến
được no lòng. Ngay cả những thân cây khô, những đống củi cũng là nơi
trú ẩn cho những sinh vật nhỏ bé như con ong, con sâu, ông bà cũng
không bao giờ nỡ đuổi chúng đi.
Cái văn hóa tốt
đẹp này của người Nhật được cả thế giới ngưỡng mộ.
Bây giờ ông 88 tuổi rồi, bà kém ông 3 tuổi. Cả hai
cùng mong manh yếu đuối. Kết quả của mấy chục năm làm việc đồng áng
trong nắng, trong tuyết, bốn bàn tay gầy guộc co quắp lại. Cả hai ông
bà không còn cầm được cái gì cho vững chắc trên tay nữa, di chuyển
cũng trên cái ghế có bánh xe.
Ba người con lên tỉnh học, lập gia đình rồi ở lại.
Họ không thể về quê sống, vì không có công việc thích hợp với những
chuyên môn kiến thức của họ. Họ cũng không mang ông bà đi được vì nhà
cửa ở tỉnh chật hẹp và đắt đỏ. Ông bà vẫn sống trong căn nhà của
sáu mươi năm về trước, ngôi nhà từ hồi ông bà lấy nhau. Các con có
sắm sửa một ít đồ đạc cho tiện nghi đời sống như tủ lạnh và máy
giặt, bếp điện. Đấy là từ mười năm về trước khi ông bà còn tự chăm
sóc cho mình được. Bây giờ thì phải có người để dùng những đồ đạc
tiện nghi và văn minh đó.
Con cái những ngày lễ, ngày nghỉ phép thay nhau
thỉnh thoảng về thăm, ở một vài ngày rồi đi. Mấy đứa cháu chơi với
ông bà vài ngày cũng chán vì nhà và vườn không còn gì hấp dẫn khi
không có người săn sóc và ông bà càng ngày càng chậm, đi không vững,
nghe không rõ. Ba người con cùng thương cha mẹ nhưng họ không biết làm
gì khác hơn. Họ cũng có thuê người mang thức ăn tới, nhưng lại không
đủ tiền mướn một người làm tất cả các việc lặt vặt và ở luôn
trong nhà. Cuối cùng họ chung nhau tiền mua cho ông bà một anh Carebot.
Anh Carebot này rất giỏi, anh làm gần như đủ mọi
việc, anh có thể bế ông bà từ ghế vào giường, từ giường vào nhà
tắm. Anh biết sửa soạn bữa ăn cho ông bà, miễn là trong tủ lạnh hay
trên kệ có sẵn thức ăn đã nấu hay đồ hộp.
Bà Hishako và ông Kentaro mới đầu buồn tủi lắm, khi
thấy mình được (hay bị) săn sóc bằng người máy, nhưng dần dần họ
phải miễn cưỡng chấp nhận thôi. Ngoài thức ăn một tuần hai lần có
người giao tới nhà, bỏ tủ lạnh cho. Tất cả các công việc khác từ
hâm nóng thức ăn, bế vào giường, làm vệ sinh nhà cửa, giúp giặt
giũ, tắm rửa hoàn toàn trông vào Carebot.
Từ ngày có Carebot con cháu của ông bà hình như đến
thăm ít hơn. Bà nghĩ chúng bận làm, bận học. Nhưng ông thì không nghĩ
thế, ông nói:
- Chúng nó giao bà với tôi
cho người máy rồi.
Bà an ủi ông:
- Nhưng ông không thấy người
máy cũng biết ôm ấp à. Thỉnh thoảng Sato (tên ông bà đặt cho Carebot)
chẳng ôm tôi là gì.
Cứ như vậy đã ba, bốn mùa hồng đi qua, hình ảnh con
cháu mờ dần trong hai cặp mắt già nua. Những mảnh đất lâu năm không ai
trồng trọt, tự nó đã mọc đầy cỏ dại, những cây hồng không ai hái,
trái rụng, chết mục khắp mặt đất. Hai ông bà như hai con chim già
trong một cái lồng bắt đầu xiêu đổ.
Ông Kentaro ra hiệu cho Sato đến đủn chiếc ghế lại
gần vợ. Ông đưa bàn tay khẳng khiu của mình sang nắm bàn tay khô mốc
của vợ, bà biết ông sắp muốn nói điều gì, Bà nghiêng đầu dựa sát
vào vai ông để nghe cho rõ.
Ông nói vào tai vợ:
_ Tại sao văn hóa của người Nhật đối với thiên nhiên
tốt đẹp như thế!
Họ chia mùa màng cho chim chóc, muông thú, sự quan tâm
tối đa. Sao họ lại để cho những mảnh kim loại, những thiết bị điện
tử săn sóc cha mẹ họ. Khi các con còn nhỏ tôi với bà thay nhau bế
ãm, thay nhau cho con bú mớm. Con khỏe mạnh mình cười, con ốm đau mình
khóc. Mình có giao cho ai đâu, thậm chí con chó, con mèo chơi với con
cũng phải ngay bên cạnh mình. Bây giờ tôi với bà có chết trong nhà
này thì anh Sato chắc là chạy chung quanh mình kêu bíp bíp….Anh ta sẽ
kêu hoài như thế cho tới khi chị Junko mang thức ăn tới, có thể là ba
hay bốn ngày hôm sau.
Bà im lặng nghe ông nói, không biết trả lời thế nào.
Bà nhớ khi anh con trai trưởng mang Sato tới cho ông bà, anh có nói:
- Cha mẹ đừng lo sợ gì,
có Carebot là như có con ở bên cạnh, anh ta làm hết được mọi việc,
có khi còn giỏi hơn con nữa. Mà cha mẹ có biết không, bây giờ thanh
niên Nhật họ lười cưới “vợ người” lắm, họ chỉ cần mua một cô vợ
robot về là được đủ việc và chỉ tốn tiền có một lần thôi. Họ sẽ
không cần phải làm việc nhiều để nuôi gia đình như con bây giờ đâu.
Bà nhớ là bà đã hốt hoảng nhìn xem cô con dâu có
đứng gần đó không? Cô đó nhậy cảm lắm, nghe được thì gia đình sẽ
mất vui. May quá, cô ấy đang chuyên trò gì đó với hai đứa con.
Khi con cháu ra về hết để lại anh Sato, ông bà cũng
mất cả tuần lễ mới quen với cách đi đứng, cách chăm sóc của anh. Bây
giờ dù muốn hay không ông bà cũng phải chấp nhận sự hiện diện của
anh. Không như chồng, lúc nào cũng than phiền là anh ta bằng máy, những
va chạm của anh cứng ngắc, anh ta không có cảm xúc khi chăm sóc mình.
Bà Hisako mỗi lần nhận được điều gì của anh, bà cố hình dung ra anh
là người bằng xương bằng thịt. Thậm chí khi anh bế bà từ ghế vào
giường bà nghe được cả hơi thở và nhịp tim anh đập. Bà có tưởng
tượng thái quá không?
Chị Junko mang thức ăn nấu sẵn tới như thường lệ,
chị cất thức ăn vào tủ lạnh rồi đi tìm Sato. Chị cũng có bổn phận
kiểm soát lại Sato mỗi khi chị đến, xem chức năng phục vụ của anh có
cần điều chỉnh lại không?
Căn nhà im ắng quá, thật ra cả ba người này có bao
giờ gây tiếng động to nào đâu. Chị đi từ nhà ngoài vào tận buồng
ngủ của ông bà mới gặp cả ba người.
Trên hai chiếc giường nhỏ kê song song cạnh nhau. Bà
Hisako và ông Kentaro nằm như ngủ, nằm rất thẳng thắn trên gối và chăn
đáp ngang ngực. Sato đứng gập người, như cúi lạy dưới chân giường của
hai người. Chị đến gần, áp mặt mình vào mặt bà, rồi lại áp sang
mặt ông. Cả hai đều không còn thở nữa. Chị chạm tay mình lên vai Sato,
anh ta không có phản ứng nào, không phát ra tiếng động nào, hình như
anh cũng đã “chết”.
Junko lặng lẽ đi ra
khỏi nhà, khép rất nhẹ cánh cửa lại sau lưng mình. Hành động của
chị như một người máy.
Trần Mộng Tú
(*) 1 Chiếu: Tatami mat = 90cm x 180 cm
12/12/2016