Vừa kết thúc hợp đồng cuối năm, tôi đặt vé máy bay về nước ngay. Vợ tiễn tôi
ra sân bay, nàng ôm tôi hơi chặt, hôn hơi dài. Bố vợ tôi không được khỏe nên
lần này tôi về một mình. Chắc nàng lo lắm, có lẽ nàng nghĩ tôi về mà không có
nàng giống y cái xe không có thắng. Mà cũng phải, lần hai đứa về ra mắt má tôi
và họ hàng, nàng chứng kiến tôi bù khú với mấy thằng bạn cũ ì xèo. Tội nghiệp,
nàng chỉ dám ngồi bên cạnh, lâu lâu đá ngầm chân tôi dưới gầm bàn, chờ khi tôi
quắc cần câu, nàng gọi taxi chở về nhà, rên rẩm với má tôi một hồi. Má tôi hồi
đầu la thằng con cho mát lòng con dâu, sau thấy tôi bê tha thiệt, bà già cự dữ
dội. Lạ, nàng lại quay ra bao che cho tôi. Khi tôi say, nàng kêu xe chở thẳng
hai tên về khách sạn, sáng mai tôi tỉnh ra mới trở về nhà, còn nói dối má tôi
là hồi tối về nhà thằng bạn thân tôi ngủ lại.
Tôi gặp nàng khi một mình trên xứ người, tơi như cái giẻ. Tôi đi làm thêm để
kiếm tiền chi tiêu và gửi về phụ gia đình. Mỗi tháng tôi đến xén cỏ cho khu
vườn nhà nàng một lần, còn tưới cây thì một lần vào cuối tuần. Mười lần như
chục, khi tôi bấm chuông căn nhà đẹp như địa đàng ấy và người giúp việc mở rộng
cổng, tôi đều thấy nàng đu đưa trên cái xích đu sơn trắng và mở to mắt nhìn tôi
như đã chờ đợi tôi từ lâu lắm. Bao giờ tôi cũng nghiêng đầu chào nàng trước khi
bắt tay tưới cây, cắt cỏ.
Nhà nàng có hai cha con, mẹ nàng mất khi nàng non nỉu như trái bắp măng tơ
trên cây. Tôi săn được học bổng du học toàn phần nên quyết chí đi, mọi sinh
hoạt phí đều tự lo để má tôi không phải lo lắng. Tôi làm tất cả mọi việc, từ
giao báo mỗi sáng sớm đến xén cây, dọn vườn vào những ngày nghỉ, cả rửa chén
bát cho hàng ăn vào mỗi tối. Thế là, tôi đã trở thành người chăm sóc vườn cây
của gia đình nàng, chính xác là của nàng.
Nàng đẹp mong manh. Như một nhành lan. Nàng yêu cây lá theo cách thật cảm
động. Trong vườn có mấy cây táo, mấy gốc đào, ít tán cherry… Mùa trái chín nàng
chờ mong tôi đến để hái quả giúp nàng. Và ngắm, vuốt ve, không nỡ ăn.
Một ngày, nàng rụt rè nhờ tôi thiết kế giúp nàng một giàn cây.
- Để làm gì?
- Em thích một giàn hoa leo, thật mềm mại.
- Em định trồng hoa gì?
- Dạ hoa bìm bìm.
Suýt chút nữa tôi la lên. Sao nàng lại thích ngay cái loài hoa dại ấy, loài
hoa mọc khắp hàng rào, tường vôi, bờ bãi bên nhà thờ đổ ngày xưa ấy vẫn thỉnh
thoảng gậm nhấm dây thần kinh tim tôi, vẫn loi lói dưới lần áo mỗi khi tôi nhớ
về.
Tôi chọn học ngành kinh tế vì nhà tôi không khá giả gì, ba má tôi còn phải
lo cho hai đứa sau tôi đang tuổi ăn học. Nhưng tôi không dừng được niềm đam mê
hội họa. Hết giờ học, tôi hay la cà đến Nhà thờ Đức Bà xem mấy đứa sinh viên
phác phác họa họa. Tôi làm quen với một nhóm sinh viên Mỹ thuật, lâu dần thành
thân. Vẽ ở đâu tụi nó cũng hú hé. Có khi tôi còn góp ý, còn vẽ giúp tụi nó nữa.
Hê hê…
Một hôm, thằng Phấn trong nhóm gọi tôi hỏi mày đi Đà Lạt với tụi tao không?
Đi xe máy, nhỏ Linh có xe nhưng thiếu tài. Ok, nhưng… Dường như nó hiểu ngay
nỗi khó nói của tôi. Tài chính hả, yên tâm, yên tâm, có tao!
Tôi dân tỉnh lẻ chính hiệu con nai vàng, nhà lại nghèo nên chả bao giờ rủng
rẻng. Thấy tôi ngại ngần, thằng Phấn dúi vô túi áo tôi hai triệu để đóng cho
bọn con gái làm thủ quỹ. Tôi thầm hứa lòng mình, khi nào đi làm có tiền tôi sẽ
gửi lại cho thằng Phấn ngay.
Nhỏ Linh bám tôi đến phát sượng. Linh không đẹp nhưng cũng dễ thương, hay
cười. Nhưng tôi dứt khoát không yêu nó được vì mỗi tội ngồi sau cứ áp sát vào
lưng tôi làm tôi không thoải mái tí nào! Tôi hơi bảo thủ: con gái vậy thì hơi
dễ dãi, chơi vui thì được, yêu thì ghen tuông mệt mỏi chết.
Vậy nên lên tới Đà Lạt sau một ngày lang thang đồi thông vẽ một bộ tranh
những hạt nhựa thông màu hổ phách trong veo như những giọt cà phê nâu nguyên
chất, nhỏ Linh sụt sịt, ách xì mấy cái là tôi bắt nó uống thuốc cảm nằm nhà đắp
mền kẻo ốm. Tội, cô bé nghe cái rụp như lời thánh phán, chắc nó nghĩ tôi lo
lắng cho nó thật sự.
Một mình một yên, tôi bỗng muốn tách bọn thằng Phấn một ngày để lang thang
những cung đường cao nguyên, một mình nghe cảm giác cô đơn lan tỏa. Thằng Phấn
hình như rất hiểu kiểu ngựa chứng của tôi, không cần hỏi lý do lý trấu gì cả,
chỉ dặn chiều nhớ về sớm, trên này trời tối nhanh nhen mày.
Ừ với nó xong, lòng tôi tự dưng buồn buồn chi lạ. Nhưng, màu đất đỏ của
những con đường cao nguyên uốn lượn có sức hút ghê quá. Tôi lên xe đi về phía
đám mây xám mờ mờ. Vô định. Với một câu nói của ai đó: “Một cái đầu đầy nỗi
sợ hãi sẽ không còn chỗ trống cho những ước mơ”. Sự hấp dẫn của những con
đường lạ là những thú vị bất ngờ để nghe râm ran thích thú trong đáy tim. Cả
thử nghiệm một chút âu lo về những bất trắc có thể xảy đến, sức chịu đựng của
tấm lưng dài bờ vai rộng tuổi đôi mươi.
Đang mơ mơ trên đường bỗng tôi nhận ra một giáo đường bỏ hoang với một mảng
tường là cả thảm hoa lá bìm bìm lơi lả. Những bông hoa hình chuông tím dại tím
khờ như đang ngân rung bản nhạc Jingle bells theo phong cách dân dã
nhất. Tôi dựng chưn chống xe, bắt đầu tìm một vị trí để phác thảo bức tường đan
dệt bằng màu lá xanh ngút và những cái chuông tím rung rinh. Tôi sắp cảm nhận
sự bất lực của chì đen trong việc tái hiện sắc tím đang loang dần từ nhụy hoa
ra đến rìa cánh thì hình như có bóng ai thấp thoáng sau bức tường. Tôi chầm
chậm lần vô, thoáng giật mình vì một mái tóc dài mướt rượt. Con gái! Một nhánh
cây vướng mũi giày làm tôi suýt chúi nhũi. Nàng quay lại có vẻ hơi hoảng sợ.
Đúng con gái Đà Lạt, mỏng manh như dây tơ. Trời, một cái giá vẽ màu nước với
bức họa giậu đổ bìm leo trong trẻo nhưng buồn tê tê.
Tôi khựng lại ngắm bức phác thảo, phải công nhận là đẹp nhưng sao thiêu
thiếu một cái gì. Thấy tôi chỉ chăm chăm cái giá vẽ nên có lẽ nàng hơi yên tâm,
nhìn tôi như chờ đợi. Tôi nheo mắt, nghiêng ngó:
- Em xem, bức tranh của em thiếu các cấp độ từ lam sang hồng tím, hoa của em
ngả hết sang tông tím than, đúng không?
Nàng nhìn tôi, ngỡ ngàng gật đầu. Tôi bước đến bên bức tường, nâng một đọt
lá cong như lò xo và còn vẹn nguyên những sợi lông măng:
- Em phải thể hiện cả cái nguyên sơ ngời lên trong nắng của cái đọt lá này
nữa!
Bỗng, tôi nghe nhói lòng bàn tay một phát. Một con rắn lục vừa thụt đầu vào
đám lá xanh um. Tôi la lên:
- Rắn!
Nàng tái xanh, run rẩy như cành lau rũ ướt sương đêm. Nàng bối rối, cuống
quýt và nước mắt bắt đầu lăn.
Tôi ôm chặt cổ tay, bảo nàng tìm cho tôi một sợi dây. Tôi muốn buộc ga rô
trước khi ra đến bệnh viện gần nhất. Tôi bảo nàng bứt cho tôi một sợi dây bìm
bìm nhưng tay nàng run lật bật, bứt không nổi một đoạn già gần gốc. Bất ngờ,
tôi thấy nàng xổ tung ba lô, tìm thấy chùm chìa khóa đính một cái cắt móng tay.
Nàng quay lưng cởi áo ngoài, lột chiếc soutien, cắt hai sợi dây nối lại rồi cột
cánh tay tôi. Trong phút chốc, tôi như ngừng thở trước vẻ đẹp ngọc ngà của tấm
thân nàng.
Nàng chở tôi đến bệnh viện gần đó. Lạ kỳ, sợ hãi đến lạnh người mà tôi vẫn
còn đủ sức ngả đầu lên vai nàng, hít mùi hương trên vai, trên cổ, trên tóc
nàng. Nàng tưởng tôi sắp ngất nên càng đưa lưng ra cho tôi tựa hẳn vô. Ôi, cái
thằng quỷ tôi!
Những ngày sau đó, tôi nằm lại bệnh viện. Nàng chăm như chăm em bé. Tôi
sướng ngất ngây, quên cả cái cánh tay phù to vật vã. Thằng Phấn vô thăm, nhìn
thấy nàng đang đút cháo cho tôi, nó ghé sát tai tôi, chúc mừng mày, thằng số
đỏ! Hehe. Nhưng nó đâu có biết nỗi khổ tâm của tôi, hễ tôi nắm tay nàng là y
như rằng nàng rụt tay lại, đứng lên lấy cớ đi lấy nước cho tôi, giặt khăn cho
tôi.
Thằng bạn chí cốt ghé tai tôi hỏi nhỏ mày có cần tụi tao ở lại chăm mày
không? Nhưng tôi ra hiệu không cần. Tôi muốn được nàng chăm sóc hơn! Chỉ mong
nó thu xếp sao cho xe nhỏ Linh về lại thành phố. Nó vờ nhăn nhó nói với nàng,
bọn anh lên đây có hai thằng thôi mà anh phải về thành phố có việc rất gấp, nhờ
em coi ngó thằng bạn anh giúp anh. Nàng hồn nhiên:
- Anh yên tâm, anh cứ lo việc anh đi. Khi nào anh ấy xuất viện, em sẽ nhắn
anh lên đón anh ấy về.
Nhưng chưa đầy một tuần sau, tôi nhận được tin ba tôi ở nhà bệnh nặng. Tôi
xin xuất viện sớm, và từ biệt nàng trong lưu luyến, rồi đáp xe đò về thẳng quê.
Ba tôi không qua khỏi bạo bệnh. Gia cảnh đi vào một trận bão, trong tâm bão.
Tôi vừa học vừa làm, phụ má nuôi hai em ăn học, quên cả đam mê hội họa.
Tôi săn học bổng du học với ước mơ đổi đời cho má, cho các em và mình. Tôi
an ủi má và các em ráng chờ một vài năm. Tôi lao vào học và làm như điên, thỉnh
thoảng kỷ niệm cũ có sống dậy cũng chỉ thấy tim mình loi lói một chút rồi cũng
êm lặng như mặt nước một hồ nhỏ kín gió.
*
Khi vợ tôi bây giờ đòi làm một cái giàn cây để trồng dây bìm bìm thì kỷ niệm
từ đâu bừng dậy như mới vừa xảy ra thôi.
- Tại sao em không trồng hoa gì khác mà phải là bìm bìm?
- Em thích màu tím, tím hồng, tím xanh thủy chung của nó. Nó là loài hoa
bình dị, đẹp khiêm nhường và mang một sức sống bền bỉ!
Tôi lố mắt nhìn nàng. Nàng học ở đâu ra cả một lô xách xông ý nghĩa loài hoa
sớm nở trưa tàn ấy? Nàng như sợ tôi không đồng ý dựng cái giàn cây, phụng phịu
như sắp khóc:
- Em không thích những loài hoa đài các. Em thích vẻ đẹp tự nhiên, chân mộc.
Em yêu sức sống mãnh liệt của hoa bìm bìm. Em rất thích màu tím khiêm nhường
của nó…
- Thôi thôi, được rồi! Anh sẽ dựng cho em!
Lần đầu tiên, nàng nhảy đến ôm ngang hông tôi để bày tỏ lòng biết ơn. Tôi
thấy rân rân ở vành tai.
Không biết nàng nói gì với bố nàng, mà hôm sau ông mời tôi vô phòng khách
với đề nghị tăng lương vì sẽ tăng số buổi làm việc trong tuần. Tôi thành thực
đáp rằng mỗi tuần tôi đến một lần là đủ nhưng ông tha thiết đề nghị tôi hai, ba
ngày đến một lần để chăm giàn hoa và khu vườn cho con gái rượu của ông. Nghĩ
đến món tiền gửi về cho má và các em mà tôi mừng thầm.
Năm tháng sau giàn bìm bìm Nhật Bản bắt đầu bói hoa. Lác đác những chiếc
chuông tím rung rinh theo gió. Nàng hân hoan nói với tôi rằng lúc ấy nàng có
thể nghe chúng đang thì thầm ngân nga những bản thánh ca. Tôi thì thấy nàng lúc
đó sao mà thánh thiện.
Tôi nhón ra một ít tiền lương để mua giá vẽ, giấy và bút. Đam mê của tuổi
trẻ thức dậy cựa quậy. Và tôi dự định làm một bộ tranh về hoa bìm bìm nhún
nhường, nền nã nhưng lung linh và không kém phần rực rỡ: hoa đơn, hoa chùm, hoa
và lá, hoa và đọt lá cong mịn màng lông tơ, cả giàn hoa tím hồng dưới nắng mai,
rồi tím thẫm trong màn mưa xiên xiên…
Tôi bắt đầu nghiên cứu hoa đạo Nhật Bản, cách viết thư pháp thơ haiku của xứ
sở Mặt Trời Mọc. Rồi tác phẩm Triêu nhan theo lối tranh thủy mặc của
tôi nên hình nên hài. Một bức tường đá ong lỗ chỗ dấu vết thời gian, mấy chà
cây trụi lá bên cái cổng gỗ xiêu vẹo đỡ một giàn triêu nhan tím bừng trên màn
lá hình tim rậm rịt xanh. Mấy ngồng tơ non cố vươn tay qua cổng gỗ, hướng về
tường đá rồi bất thần lả lơi trong màu nắng thu thưa thớt. Xong, tôi đề lên đó
một bài thơ haiku của Basho:
Triêu nhan một đóa
suốt ngày chốt cửa
cài vào cổng tôi
Một ngày. Tôi gói bức tranh, trịnh trọng mang đến tặng nàng. Nàng đặt bức
tranh lên nền nhà, rồi quỳ xuống đưa đôi bàn tay rờ rẫm từng cánh hoa, phiến
lá. Nàng thì thầm đọc mấy câu thơ. Và vẫn tư thế nửa quỳ nửa ngồi, nàng ngước
mắt nhìn tôi. Với hai hàng mi đẫm lệ. Cái áo trắng cổ hơi trễ nhìn từ trên cao
xuống khoe một bờ vai thanh mảnh và trắng trong. Y như người con gái năm nào.
Nàng đón lấy từng lời tôi về ý nghĩa ẩn kín của bài thơ haiku. Vì yêu bông
hoa triêu nhan bám trên cổng mà không dám mở cổng, suốt ngày chốt kín im ỉm.
Thấy nàng dường như nín thở, tai thì lắng nghe tôi nói, còn mắt dán vô bức
tranh, tôi cao hứng thêm: còn có nhà thơ thương cái đẹp mong manh của triêu
nhan vương vào dây gàu mà không nỡ múc nước, đành đi xin nước nhà bên…
Bất giác, nàng ôm lấy chân tôi và run run lời cảm ơn. Tôi đỡ nàng đứng dậy.
Nàng đứng sát vào tôi, tin cậy. Tôi ôm châu thân ấy vào lòng, nàng khép mi chờ
đợi. Tôi đặt một nụ hôn đầu đời lên môi nàng. Cả hai run lên, tựa sát vào nhau.
Lần đầu tiên tôi biết thế nào là hôn nhau. Với nàng thì càng chắc chắn thế.
Chúng tôi thành đôi. Bố nàng thương tôi như con đẻ. Tôi yêu nàng. Trong tình
yêu của tôi có chút tình thương dành cho người em gái. Nàng yêu tôi, trong thứ
tình tôn sùng. Tôi có riêng một phòng làm phòng tranh. Và giấc mơ phong cách
tranh Morning Glory[1] của tôi thành hình. Lạ thay, bức triêu
nhan nào của tôi cũng đầy hơi hướm Đà Lạt. Đêm đêm, trong giấc mơ tôi, kỷ niệm
Đà Lạt lại hiện về, day dứt một niềm ân hận không hề nhẹ. Ngày tôi đi học xa,
tôi không có điều kiện để tìm nàng, nói một lời cảm ơn. Không có cái hành động
quyết liệt ấy của nàng chưa chắc tôi sống sót mà ra viện. Nhưng biết tìm nàng ở
đâu bây giờ?
Công việc cuối năm thưa bớt, tôi nói với vợ, tôi cần về nhà. Để trông coi
xây lại mộ phần ba tôi. Và trong đầu tôi lớn dần ý nghĩ: tôi phải lên Đà Lạt đi
tìm người thiếu nữ vẽ bức tường giáo đường tím thẫm hoa bìm bìm.
Tôi chọn chuyến xe đến nơi vào đầu giờ chiều. Bắt một chiếc taxi với yêu cầu
chạy thật chậm để tôi nhớ đường. Không khó để tìm lại con đường trập trùng bóng
thông thẳng tắp. Nhưng vòng tới vòng lui mà vẫn không thấy ngôi nhà thờ cổ bỏ
hoang. Chỉ toàn những biệt thự sang trọng, những nhà hàng cao cấp ẩn hiện bên
những gốc thông già và những vạt dã quỳ vàng nhức. Thấy tôi đã bắt đầu thất
vọng, anh tài xế rụt rè lên tiếng:
- Anh cần tìm nhà ai?
- Em có biết một giáo đường cũ bỏ không đoạn đâu đây không?
- Hình như lâu lắm rồi, anh à. Nó sụt dần. Rồi người ta phá bỏ…
- Trời!
Tôi tiếc một thánh đường. Và tôi hoang mang: biết tìm nàng ở đâu bây giờ?
Tôi trả tiền taxi và xuống đi bộ. Không khí mát mẻ làm lòng tôi dịu bớt. Tôi
lang thang mong có chút thông tin gì chăng. Một quán cà phê nhỏ giữa con dốc
với tấm bảng gỗ thông khắc bằng bút lửa cái tên “HOA BÌM BÌM” và hai
bên hai trụ bìm bìm tim tím đập vào mắt tôi. Tim tôi loạn xạ hy vọng. Cô chủ
quán mặc một chiếc áo len tím hoa cà nhìn tôi lạ lẫm. Có lẽ do tôi ăn mặc trịnh
trọng, không giống khách bụi thường thấy bây giờ chăng?
Tôi gọi một ly cà phê nguyên chất. Khi cô chủ mang phin cà phê ra, tôi vô ý
huơ tay làm sóng sánh những giọt nước sôi văng lên vạt áo ấm tím. Tôi xin lỗi
nhưng cô một mực xin lỗi tôi. Thật cảm kích! Mấy phút sau, cô xuất hiện với một
chiếc vest trắng vẽ nơi chân cổ một đóa bìm bìm. Tôi đứng hình. Bởi cô đẹp quá.
Và bởi cái bông hoa kỳ lạ kia. Bìm bìm hiện hữu ở cái quán này không ít: cổng
vào…trên áo…
Cô chủ quán vào ngồi lặng lẽ phía trong quầy. Tôi không dám đường đột lên
tiếng. Mãi đến khi gọi cô tính tiền, kèm một ít tiền boa nhưng cô dứt khoát gửi
lại, tôi mới dám rụt rè hỏi về ngôi giáo đường cũ nát ngày xưa.
- Ông không phải người ở đây sao ông lại biết nó?
- Tôi đã từng đến đây vẽ và tôi có biết một người con gái cũng chính tại nơi
này!
- Cô ấy tên là gì?
- Cô ấy tên Mai!
Cô chủ quán biến sắc:
- Anh là Quân?
- Sao cô biết???
- Chị Mai em kể về anh nhiều lắm…
- Mai bây giờ ở đâu, em???
Cô ấy đưa tôi vào nhà. Trên bức tường treo bức tranh hoa bìm bìm Mai vẽ ngày
ấy. Không lẫn vào đâu được. Trong khi tôi còn đang dán ánh nhìn vào tấm tranh
thì cô em níu tôi đến trước bàn thờ. Mai đó ư? Sao vậy, sao Mai của tôi lại ở
đây? Mai ơi!
Nước mắt tôi giàn giụa. Hạnh – em Mai – nức nở kể cho tôi nghe về cái chết
của Mai. Trên đường đi làm về, Mai bị chiếc xe du lịch mất thắng hất vào gốc
thông. Cô ấy mãi mãi trinh nguyên. Cô ấy đã tin rằng thể nào tôi cũng quay lại
tìm. Cô ấy từ chối hết những lời tỏ tình của những chàng trai trẻ giàu có, đẹp
trai, phong độ.
Một thằng đàn ông như tôi mà khóc như mưa gió. Tôi hận tôi quá, tôi là thằng
tệ bạc. Tôi là kẻ vô ơn. Tôi không thể tha thứ cho tôi. Những ngày ấy nàng đã
đợi tôi trong lê thê. Không một lời trách móc. Vậy mà tôi cắm đầu ra đi tìm một
chân trời cho mình. Không một lời từ giã. Trời ơi!
Vợ chồng Hạnh giữ tôi lại mấy ngày, cho chị Mai vui. Hạnh bảo thế. Hạnh đưa
tôi ra mộ Mai. Và đến cả chỗ nhà thờ cũ, giờ là một trại hoa oải hương tím
ngát. Tôi như thấy Mai với bờ vai trần, hy sinh chiếc áo và cả nỗi e thẹn của
người con gái để cứu tôi. Tôi ngước lên trời cao. Một làn mây tím đang bay về
cuối trời.
Tạm biệt vợ chồng Hạnh, tôi mang theo bức tranh hoa bìm bìm như ý nguyện Mai
từng thổ lộ mỗi khi Mai kể về tôi với Hạnh.
Bây giờ bức tranh ấy ở ngay chính giữa phòng khách của nhà tôi. Bên cạnh là
bức Triêu nhan tôi tặng vợ ngày nào. Tôi đã kể với vợ. Nàng thút thít
như một đứa trẻ và hối tôi đưa nàng về Đà Lạt.
Giờ, nàng thương Hạnh còn hơn tình chị em ruột thịt.