1
Nghe tôi nói đến “Hiếu nhà băng,”
ông Thạc lộ vẻ ngạc nhiên:
- “Hiếu nhà băng” ở Zurich? Ông cũng quen hắn à?
- Quen. Nhưng
chưa lâu lắm. Ông biết ông ấy?
- Biết chứ. Từ
hồi kháng chiến chống Pháp kìa. Lúc ấy hắn có cái biệt danh khác — “Hiếu tồ”.
- Trái đất tròn
thật. Tôi gặp ông Hiếu trong chuyến du lịch trên sông Nil, lâu rồi, dễ cũng đến
ba hoặc bốn năm. Quen nhau kiểu ấy thì chỉ loáng thoáng thế thôi, mãi đến năm
ngoái gặp lại nhau ở Genève hai đứa mới có dịp tâm sự. Ông này tính tình cởi
mở, dễ chịu lắm, tuy có hơi tồ tồ một chút thật, ông gọi là Hiếu tồ cũng không
ngoa. Nghe ông nói mới biết, chứ tôi cứ tưởng ông ta là dân Bắc kỳ di cư rồi
vọt qua đây sau tháng tư 75. Cái vụ thuyền nhân bi thảm là thế, thế giới chửi
cho mục mả, vậy mà cũng có cái mặt hay của nó — người mình giờ ở đâu cũng có,
dễ chỉ thua dân Trung Quốc. Người ta bảo ở đâu có gián ở đấy có người Trung
Quốc.
- Hiếu tồ đi
sang bên này khoảng 78 hay 79 chi đó.
- Thuyền nhân?
Ông gật đầu.
- Tức là có đi
kháng chiến một đoạn, rồi dinh tê?
- Đại khái thế.
Nghe nói bây giờ hắn giàu. Không phải giàu thường thường, mà giàu lắm.
Ông Thạc liếm
đôi môi khô. Trong giọng nói của ông có một chút khó chịu, hoặc một chút ghen
tị, hoặc cả hai.
- Trông ông ấy
bề ngoài thì cũng bình bình, vầy vậy, không có dáng giàu có — tôi thấy cần nói
nhận xét của mình, tôi không thích cái sự khó chịu vì người khác giàu ở ông
Thạc - Ăn vận xuềnh xoàng, xe không sang — một cái BMW không còn mới. Đại khái
thì cũng như mọi người khác, người bình thường, tôi thấy ông ấy không có gì đặc
biệt, không vênh, cũng không hãnh. Nghe ông ấy kể thì đúng là trước khi về hưu
ông ấy có làm việc ở một ngân hàng lớn. Phó giám đốc hay là chuyên viên gì đấy.
- Giám đốc đấy,
ông ạ. Làm đến chức ấy thằng chó nào mà không giàu cơ chứ?
- ông Thạc đổi
giọng ngậm ngùi. Ngẫm ra cái số con người ta thật lạ, lên voi xuống chó khôn
lường, có giời biết trước. Tôi biết Hiếu lắm. Trước đây, hắn công tác cùng chỗ
với tôi.
Đến lượt tôi ngạc nhiên:
- Tức là ông
Hiếu còn ở bộ đội nữa?
- Chứ sao. Cấp
dưới của tôi. Nhưng hồi ông đến công tác ở chỗ tôi thì hắn không còn đấy nữa.
Đào ngũ rồi.
- Năm nào?
- Đầu năm 54.
- Chiến thắng
đến nơi mà còn chuồn, rõ hoài, có phải không ông? Ông Hiếu có không muốn nhắc
đến giai đoạn ấy cũng là phải thôi, chẳng vinh quang gì.
Tôi với ông
Thạc quen nhau hồi ông còn làm trưởng phòng chính trị quân khu 3, tôi từ Việt
Bắc về làm công tác tổng kết quân sự. Rồi tiếp quản thủ đô, mấy đợt rèn cán
chỉnh quân, chúng tôi gặp nhau luôn. Ông về hưu với quân hàm đại tá. Người khác
ở tuổi ông, có thâm niên quân đội như ông, thì đã lên tướng từ lâu. Chuyện dân
“tạch tạch xè,” đi kháng chiến bị phân biệt đối xử là chuyện thường tình, chẳng
làm ai ngạc nhiên. Quen nhau lâu thế nhưng tình bạn giữa chúng tôi không thể
gọi là thân thiết, có lẽ tại tính tình không hợp, hoặc tại cái gì đó không giải
thích được, nhưng biết nhau hơn nửa thế kỷ mà vẫn giữ được quan hệ quen biết
nhau thì cũng coi như có sự gần gụi. Ông sang Đức ở với con gái, không hiểu nhờ
ai mà biết địa chỉ của tôi, ông có biên thư hỏi thăm, thành thử có việc qua
vùng ông ở, tôi rẽ vào thăm. Ông mừng lắm, ôm chặt, vỗ lưng tôi đồm độp, mắt
nhoà đi. Ông đang trong cơn cô đơn, tôi đoán. Tâm trạng này, với từng cơn ác
tính, có ở bất cứ người lớn tuổi nào trong cuộc sống xa quê. Hỏi thì ông bảo
cuộc sống của ông tạm ổn, không có gì đáng phàn nàn. Anh con rể người Đức là
chuyên viên của hãng Siemens nổi tiếng, lương cao; cô vợ trông nom một cửa hàng
hoa tươi, nhiều khách quen, có bề phát đạt. Ngoài ngôi nhà ở khang trang ở
trung tâm Stuttgart hai vợ chồng còn tậu được một nhà vườn. Ở nước Đức như thế
là thuộc loại trung bình khá. Khi mới sang, ông bố vợ ở chung với các con, ít lâu
sau ông dọn ra ở nhà vườn. Ông bảo ở đây cũng đủ mọi tiện nghi, lại được ở một
mình, dễ chịu hơn, chưa kể sáng sáng còn có việc làm — với cái cuốc, cái kéo
tỉa cây, bình tưới, ông chăm sóc mấy giàn hoa leo, mấy luống rau thơm, ăn không
ngồi rồi buồn chết được. Thỉnh thoảng, cuối tuần, hai vợ chồng dẫn mấy đứa cháu
ngoại ra thăm ông. Ông không biết một tiếng Đức nào, với ai ông cũng chỉ gật
đầu mỉm cười thay lời chào. Anh con rể gật đầu chào lại, nhưng không cười. Hai
đứa cháu trai nghịch như quỷ sứ, vừa ra đến nhà vườn là chúi ngay vào các trò
chơi của chúng, la hét om sòm.
- Cái giống Đức
tính lạnh, ông ạ, không như người mình — ông nhận xét. Giao thiệp với dân Đức
không dễ, chẳng biết trong bụng chúng nó nghĩ gì. Thằng rể tôi được cái lễ độ,
biết kính trọng bố vợ.
Ông tiếp tôi ở
nhà vườn, xăng xái đi nấu cơm thết bạn. Tôi thấy ông đi đứng còn nhanh nhẹn,
lưng không gù, giọng sang sảng, duy có nước da mai mái, dấu ấn của bệnh sốt rét
kinh niên, làm ông hơi xấu mã. Hàm dưới đưa ra, má hóp lại. Ở tuổi 76 mà được
như thế là tốt rồi. Trong phong thái, ông vẫn còn giữ được chút gì đó của một
thời chinh chiến, khi ông còn là một cán bộ quân sự quen ra lệnh. Bây giờ không
ra lệnh được cho ai thì ông ra lệnh con béc-giê giống Đức lúc nào cũng quanh
quẩn bên chủ. Nó to như con bê, mà hiền khô. Dưới sự chỉ huy của ông nó biết ăn
cơm nguội rưới tí nước thịt, y như một con vàng hoặc con vện Việt Nam. Tôi muốn
hỏi ông sang Đức sống lẻ loi thế này làm gì cho khổ, trong khi ở Việt Nam ông
có bạn bè, có họ hàng. Tuổi già sống cô độc ở xứ người có vui gì. Lương hưu cấp
tá giờ khá hơn trước nhiều, thừa đủ cho một cuộc sống không còn nhiều đòi hỏi.
Ông cũng cho biết nhà nước bây giờ chiều cán bộ hưu lắm, nhất là đám có thâm
niên cách mạng cao, không muốn họ gây chuyện nay kiến nghị mai phản đối, hoặc a
dua với bọn mới hưng đòi dân chủ.
- Sang đây ông
có gặp lại ông Hiếu không?
- Có. Mà không.
- Là thế nào?
- Tôi có trông
thấy hắn ta, nhưng không gọi.
- Sao vậy? —
tôi trợn mắt - Ông giận ông ấy hở? Giận cái chuyện đào ngũ ấy à? Vớ vẩn. Chuyện
từ đời tám hoánh mà đến giờ còn để bụng thì ông quẩn rồi đấy. Bọn mình, thằng
chó nào cũng vậy, gần đất xa trời cả rồi, mọi chuyện xửa xưa ông nghe tôi, cứ
quăng tuốt đi, cho nó nhẹ. Ông âm lịch quá đấy.
Ông Thạc nhún
vai, môi dưới trề ra. Im lặng một lúc, ông thủng thẳng:
- Không phải
tôi giận hắn cái chuyện ấy đâu, chuyện ấy tôi không tính, bộ đội hồi ấy đào ngũ
nhiều, chẳng phải mình hắn... Hồi Cải cách ruộng đất bọn con cái địa chủ, phú
nông, không trước thì sau, theo nhau chuồn bằng sạch. Không như chúng ta, đã đi
với cách mạng là ta đi đến cùng. Chúng nó không thể kiên trì lập trường cách
mạng là do bản chất giai cấp của chúng nó khác ta...
Tôi che miệng
ngáp. Giời ạ, cái bài ca lập trường giai cấp cũ rích tưởng chừng không còn có
thể nghe thấy ở bất cứ đâu, đùng một cái lại gặp nó giữa lòng nước Đức. Tôi
chán. Tôi còn ngạc nhiên nữa. Từ lâu rồi ông bạn tôi, chính ông, cũng đã biết
thừa rằng ông, và cả thế hệ ông nữa, bây giờ là cái vỏ chanh vắt kiệt bị quẳng
vào thùng rác lịch sử, rằng cuộc cách mạng đầy lãng mạn là lẽ sống một thời
trai trẻ của lớp người như ông đã biến mất, thay vào đó là một xã hội của những
kẻ đi sau về trước, trong cái xã hội đó những người như ông chẳng là cái gì
hết. Biết thì ông biết đấy, không phải ông ngu, ông không biết, nhưng trong tâm
tư ông, trong cái vô thức vô duyên của ông, lại có cái gì đó chống lại cái biết
của ông, khốn nạn vậy. Những người như ông không ít. Trong họ cái quá khứ hào
hùng nặng như cối đá, bất chấp sự biết ấy, sự ngộ ấy, vẫn cứ tiếp tục tồn tại,
nó sống không cần anh có biết đến nó hay không, nó hiện hữu thường trực như một
bản năng được cấy ghép, âm thầm hiện hữu, thậm chí ta không nhận thấy nó, nhưng
thỉnh thoảng nó lại trỗi dậy, thỉnh thoảng lại hung hăng lên tiếng. Trong cái
xã hội do chính họ tạo ra, nhưng lại hình thành ngoài ý muốn của họ, theo một
cách khác hẳn, họ chẳng còn gì để tự hào, họ thấy mình là đồ bỏ trong lòng xã
hội ấy, thế là họ đành nhẫn nhục sống với những kỷ niệm, với những giáo điều đã
chết và những hào quang không còn lấp lánh.
- Vậy thì vì cớ
gì ông giận?
- Hắn là thằng
vô ơn, ông ạ — ông thở dài. Tôi giận là giận cái sự vô ơn ấy, giận lắm. Hắn
chịu ơn tôi, nhưng khi gặp tôi, hắn lờ. Tôi chỉ cần được nhìn thấy hắn mừng rỡ
khi gặp lại tôi thôi, thế là đủ, thế là được, khốn nạn, nào tôi có mong gì hơn,
nhưng không, khi gặp tôi, hắn lờ tịt.
2
Ông Hiếu cười
buồn khi nghe tôi kể chuyện tôi gặp ông Thạc.
- Tôi nhớ ông
ấy chứ, quên sao được. Trí nhớ tôi không đến nỗi tồi. Tôi có nhìn thấy ông ấy
thật. Và tôi đã không gọi, đúng thế. Chuyện ông ấy kể cho ông nghe không sai,
ông ấy không bịa, đúng là ông ấy có làm ơn cho tôi thật. Nhưng là một thứ ơn mà
người mang ơn không muốn nhớ đến...
Chúng tôi ở
trong một biệt thự nhỏ và xinh xắn bên bờ hồ Bodensee, còn có tên là hồ
Konstanz, giáp giới ba nước Đức, Áo, Thuỵ Sĩ. Hồ này rộng, nó đứng thứ hai tính
về diện tích các hồ thuộc vùng núi Alpes. Giá đất ở những nơi có địa thế đẹp ở
ven hồ Konstanz đắt khủng khiếp, có thể so với giá đất ở Hà Nội. Ở những địa
điểm có thể xây khách sạn, nhà nghỉ phải có nhiều tiền lắm lắm mới xây được một
biệt thự riêng. Tôi hiểu như thế nên rất ngạc nhiên thấy bên trong ngôi biệt
thự chắc chắn là đắt tiền của ông Hiếu chẳng có gì sang trọng. Giữa phòng khách
chình ình một cái chõng tre y như trong một quán nước ở đồng bằng sông Hồng;
trên đó lỏng chỏng một cái ấm giỏ và mấy cái bát sành. Ghế ngồi là những thân
gỗ mộc xù xì, nhưng có đệm dành cho khách không quen ngồi ghế gỗ. Tôi đã gặp
cách bài trí theo lối cổ ở nhiều nhà người Việt ly hương, với những hoành phi,
câu đối sơn son thếp vàng, những sập gụ, tủ chè, tràng kỷ, cái nào cái nấy
thuần bằng gỗ quý đặt trong nước làm... Cũng là nỗi nhớ quê hương, nhưng khác
với nỗi nhớ của ông Hiếu, nó là nỗi nhớ trưởng giả hoặc mang hơi trưởng giả.
- Tại sao?
Ông Hiếu bắt
đầu câu chuyện gợi trí tò mò của tôi vào một đêm khuya, cả hai đều khó ngủ.
Chúng tôi ngồi bên nhau, an nhàn tựa lưng trên ghế dài đặt sát mép nước hồ. Ban
đêm mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương vô cùng lớn màu đen, với những đốm lửa
nhấp nháy ở chân trời, rất xa, nơi có quần thể đông đúc khách sạn và nhà hàng.
- Ông Thạc chưa
kể cho ông nghe?
- Chưa. Ông kể
đi.
Ông Hiếu im
lặng một lúc lâu. Hình như ông do dự, ông không muốn kể, có thể là ông không
muốn gợi lại một quá khứ muốn quên. Ông chỉ kể khi tôi phải thúc giục vài lần
nữa. Sau đây là câu chuyện tôi được nghe trong đêm ấy.
“Ông Thạc lúc
bấy giờ đã là bí thư chi bộ, tôi là quần chúng. Chúng tôi đều học sinh xuất
thân, lý lịch của chúng tôi đơn giản, chúng tôi vào bộ đội như là lẽ đương
nhiên - thanh niên thời chiến thì phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Tôi với ông
Thạc vừa là bạn, vừa có quan hệ cấp trên cấp dưới. Cái sự tôi ở trong diện cảm
tình đảng, đang thời kỳ thẩm tra lý lịch để kết nạp cũng là do ông Thạc quan
tâm nâng đỡ. Chứ tôi, nói thật với ông, chẳng mặn mà gì cái sự vào đảng.
- Vào thời ấy
mà không biết quý cái sự vào đảng thì, nói thế nào cho đúng nhỉ, - tôi nói -
hoặc ông rất cấp tiến, hoặc ông hâm.
- Tôi không cấp
tiến, cũng chẳng hâm — tôi lười, ông ạ - ông Hiếu cười khe khẽ. Người ta phấn
đấu để được vào đảng, để được đề bạt, để được oai với người khác, tôi thì
không. Còn chiến tranh thì mình làm lính, hết chiến tranh thì thôi, chẳng lẽ ở
bộ đội cho đến hết đời à? Trong đảng họ nghĩ gì về tôi, tôi không biết. Mà họ
nghĩ gi mới được chứ? Tôi ở đơn vị chiến đấu suốt từ những ngày đầu kháng chiến
cho tới khi quân khu lấy về làm ở phòng chính trị, dưới quyền ông Thạc. Tôi
không thích làm lính ống quyển , nhưng quân lệnh như sơn, phải chấp hành.
- Ông có phạm
kỷ luật gì trong thời gian ấy không?
- Không.
- Ông Thạc nói
ông mang ơn ông ấy là ơn thế nào? — tôi rụt rè hỏi.
Ông Hiếu im
lặng.
- Tôi đoán...
ông phạm kỷ luật gì đó và ông ấy đã gỡ tội cho ông?
- Cái ơn còn
lớn hơn. Tôi sẽ kể ông nghe.
Ông không kể
ngay. Ông nhìn ra hồ. Khi có gió, mặt nước cũng lăn tăn một chút làm xao động
những đốm lửa xa.
Tôi im lặng
chờ. Cuối cùng rồi ông Hiếu cũng bắt đầu câu chuyện gợi trí tò mò của tôi:
“Một hôm, ông
Thạc gọi tôi ra chỗ vắng. Ông thì thào:
- Lâu nay cậu
có tin tức gia đình không?
- Không. Cũng
đến cả năm rồi không thấy thư từ gì hết. Chắc cũng chẳng có chuyện gì đâu, vùng
tôi ít bị máy bay bắn phá — tôi nói. Ông cụ tớ cũng bận. Làm chủ tịch xã, lại
còn kiêm nhiều việc trên huyện nữa. Tớ tính sau đợt chỉnh quân tới sẽ xin đi
phép về thăm các cụ.
Ông Thạc có vẻ
lúng túng. Có vẻ ông ấy phải chọn lời:
- Tớ nói chuyện
này, nhưng cậu phải tuyệt đối bí mật nhá.
- Cậu biết tính
tớ rồi, tớ không phải đứa bép xép.
Ông chớp chớp
mắt rồi ghé sát vào tai tôi, giọng trầm trọng:
- Ông cụ bà cụ
cậu bị lên địa chủ phản động rồi...
Tôi chết điếng.
Tôi không tin ở
tai mình. Lúc bấy giờ ở vùng chúng tôi đóng quân đã qua bước giảm tô giảm tức,
đang đi vào cải cách ruộng đất, nhưng đơn vị chúng tôi chỉ học tập chủ trương
chính sách để ủng hộ chứ không trực tiếp tham gia công tác cùng các đội các
đoàn. Trong học tập tôi được biết cải cách ruộng đất do đảng lãnh đạo là một
cuộc cách mạng long trời lở đất, là sự đổi đời ở nông thôn, giai cấp nông dân
vùng lên đánh đổ bọn cường hào gian ác. Thế nhưng, tôi cũng như nhiều đồng đội
của tôi, cứ nghĩ rằng ở đây, hoặc ở đẩu ở đâu kia, mới có những tên địa chủ tàn
bạo, ác độc, chứ những quân quỷ sứ ấy không thể có ở quê mình, đừng nói gì ngay
trong nhà mình.
- Nghe đâu lại
còn Việt Quốc hay Việt Cách gì đó nữa...
Tôi không còn
nghe thấy gì nữa. Tôi gục xuống.
— Chắc cậu cũng
chẳng biết hết những việc làm của ông cụ đâu... - tiếng ông Thạc văng vẳng bên
tai tôi.
- Nhưng chẳng
có gì giấu được quần chúng được phát động...
- Làm gì có
chuyện ấy được - tôi đứng phắt dậy, tôi kêu lên, rền rĩ. Ông cụ bà cụ tớ hiền
như đất ấy mà, nào có biết đảng phái là cái gì.
- Địa phương
gửi công văn đến, hỏi về cậu đấy.
- Hỏi về tớ?
- Phải. Tớ đã
viết công văn trả lời sau khi hội ý toàn chi bộ, bảo đảm cậu là cán bộ tốt.
- Chuyện ấy xảy
ra khi nào?
Ông Thạc thở
dài:
- Ba tuần rồi.
Tôi nhớ lại: có
một cái gì đó không bình thường trong ánh mắt của các đảng viên khi gặp tôi.
Dường như họ tránh nhìn tôi. Trong sinh hoạt cơ quan, mọi chuyện chỉ có đảng
viên được biết, quần chúng chỉ có thể đoán rằng có chuyện gì đó, xấu hoặc tốt,
căn cứ thái độ của họ.
- Sao cậu không
cho tôi biết?
- Nói sao
được?! Nguyên tắc.
- Bây giờ cậu
bảo tớ phải làm gì?
Ông Thạc suy nghĩ lung.
- Bây giờ cậu về nhà đi - ông nói.
Đừng nói với ai cậu đi đâu, chuyện đó mặc tớ lo. Đây là công lệnh, bản sao công
văn đơn vị gửi chi bộ địa phương, cứ cầm theo, phòng xa, có khi hữu dụng. Về
đến nhà rồi, gặp được ông cụ bà cụ rồi thì trở lại ngay đơn vị. Đấy là tất cả
những gì tớ có thể làm cho cậu.
Tôi nói:
- Ông Thạc đối với ông thật là tốt.
- Tôi không nói ông ấy xấu. — ông
Hiếu đáp — Ông nghe nốt câu chuyện đã.
“Tôi lập tức lên đường. Đi suốt đêm.
Suốt ngày hôm sau. Vừa đặt chân vào nhà, tôi bị bắt ngay. Đám du kích ập đến,
trói gô tôi lại. Chúng quát tháo, chúng chửi mắng, không cho tôi kịp ở miệng.
Mà chúng nó là ai chứ? Toàn người quen kẻ thuộc cả, ông ạ, không hàng xóm láng
giềng thì cũng người cùng thôn, cùng xã. Nghe chúng nói với nhau tôi mới biết
mẹ tôi không chịu được hành hạ đã thắt cổ tự vẫn tuần trước, còn cha tôi sẽ bị
bắn vào sáng hôm sau. Tôi lặng đi. Tôi không khóc được. Nước mắt chưa chảy đã
cạn. Mẹ tôi là một nửa cuộc sống của tôi. Ngay cả khi sống xa nhà tôi vẫn cảm
thấy mẹ ở bên tôi. Cha tôi khác, tôi yêu cha, kính trọng cha, nhưng không gần
gụi cha như gần gụi mẹ. Tôi không tưởng tượng được cái tai hoạ giáng xuống gia
đình tôi lại lớn đến như thế, lại kinh khủng đến như thế. Đau đớn nhất là cái
sự tôi là bộ đội chẳng giúp được gì cho các cụ. Không mảy may. Ngày nay ai cũng
biết rõ rằng những khẩu hiệu “Người cày có ruộng,” “Đánh đổ bọn cường hào ác
bá, nông dân giành lấy chính quyền,” Nông dân là quân chủ lực của cách mạng”...
chỉ là những lời lừa mị. Nhưng lúc ấy khác, lúc ấy chúng có một tác dụng ghê
gớm. Nông dân ào ào đi theo đội cải cách, hô những khẩu hiệu đùng đoàng ấy đến
khản tiếng, đến rạc người. Có thể họ chân thành tin ở cuộc đổi đời mà đảng hứa
hẹn, rồi đây họ sẽ trở thành những ông chủ bà chủ ở trong làng, họ sẽ có những
gì mà những người sang trọng có, có thể là như thế. Điều tôi biết chắc là những
con người khốn khổ hi vọng ở số quả thực sẽ được chia ngay lập tức sau khi bọn
nhà giàu trở thành kẻ có tội với cách mạng — một thúng thóc, cái âm đồng, cái
phản gỗ, có khi là cả cái sập gụ cũng nên...
Sáng hôm sau, tôi bị điệu ra trường
đấu. Dân chúng cả mấy xã tề tựu ở sân trường học của xã. Tôi đã nghe tiếng loa
thúc giục mọi người đi dự cuộc đấu “tên phản động đầu sỏ, tên cường hào gian
ác, tên địa chủ có nợ máu với nhân dân” từ khi còn tối đất. Trường học này đầy
ắp những kỷ niệm thời thơ ấu của tôi và của những người bạn học mặt sát khí
đằng đằng lăm lăm súng trường mã tấu đứng ở vòng ngoài. Tôi nhìn thấy cha tôi,
bị trói giật cánh khuỷu, bị lôi đi xềnh xệch, bước chân lảo đảo, giữa một đám
đông xỉa xói, gào thét, những bộ mặt biến dạng với những đôi mắt đỏ ngầu, những
cái miệng há to, nhớt dãi chảy xuống ngực áo, giữa rừng cánh tay vung lên hạ
xuống theo những khẩu hiệu đòi trả nợ máu...
- Kinh khủng! Hồi ấy tôi đang theo
học ở Liên Xô nên không được chứng kiến những gì xảy ra, chỉ được nghe kể lại,
sau này...
- May cho ông, ông là người gốc thành phố, chứ dân nông thôn chúng tôi hồi ấy,
chỉ cần hơi có máu mặt một tí là chết toi. Chẳng riêng gia đình tôi, người cùng
cảnh ngộ với chúng tôi nhiều vô số kể... Tôi nói hơi có máu mặt, tức là những
người có của ăn của để, chứ không nói những người có dư chút ít ruộng đất. Ở
nông thôn miền Bắc nước ta , ông biết đấy, đâu có nhiều địa chủ lớn. Gọi là địa
chủ, chứ đó chỉ là nông dân khá giả, do chăm chỉ làm ăn mà hoặc khéo sắp xếp
thu vén mà hơn người. Hơn cũng chẳng nhiều, bất quá vài ba mẫu là cùng, mà lại
là mẫu ta.
Ông Hiếu thở dài.
- Có cần kể cho ông nghe chi tiết
cuộc đấu không?
Ông Hiếu đặt câu hỏi, rồi im lặng
hồi lâu, như thể ông đang nhớ lại cảnh tượng hãi hùng mà ông không phải chỉ là
người chứng kiến. Ông là người trong cuộc, người chịu đựng.
- Đại khái là có một cuộc đấu kéo
dài, một cuộc xử án chớp nhoáng. Tất cả diễn ra trong những tiếng hô khẩu hiệu
không ngớt. Rồi cha tôi bị điệu ra trước bức tường xa nhất của trường học, nơi
vẫn còn cái khẩu hiệu do chính tay tôi viết năm 1945: “Hồ Chí Minh muôn năm!
Việt Minh vạn tuế!” Cha tôi bị bắn ở đó. Trước khi bị bắn, cụ chằm chằm nhìn
tôi, nước mắt đầm đìa. Có vẻ cha tôi muốn nói điều gì đó với tôi nhưng không
thể nói được — trong miệng cụ là một búi giẻ bẩn thỉu, từ đó nhểu xuống đất
những giọt dãi...
- Cụ “đi” có nhanh không?
- Không — ông lắc đầu — Lúc đấu thì
hùng hổ lắm, nhưng đến lúc phải cầm súng bắn người thì hình như không ai muốn,
hoặc người nào cũng không muốn mình là người bắn viên đạn giết chết một mạng
người, thành thử những người du kích được phân công hành quyết đều bắn trượt
trong loạt đạn đầu tiên. Những “ông đội” “bà đội” phải hò hét, quát lác liên
hồi, giật lấy súng chỉ cách cho họ bắn họ mới bắn được. Có vài viên trúng, máu
loang trên ngực cha tôi, nhưng cụ vẫn chưa nhận được viên đạn kết liễu. Một
“ông đội” mắt long sòng sọc chạy xổ đến bên cọc, rút súng lục, bắn thêm một
phát vào thái dương cụ mới “đi”.
Tôi nhắm mắt lại, không muốn hình
dung cảnh tượng gớm ghiếc đó.
Chúng tôi ngồi bên nhau, im lặng rất
lâu.
- Về sau này, khi nhớ lại những phút
hãi hùng đó tôi mới hiểu ra vì sao trước khi đưa những người gọi là địa chủ
phản động ra đấu chính thức, người ta bắt nông dân phải đấu lưng trước đã...
- Đấu lưng?
- Vâng, đấu lưng. Tức là người bị
đấu phải quỳ, nhưng không được quay mặt lại đám đông đấu mình, còn những khổ
chủ, những người được “đội” bồi dưỡng để đấu thì xỉa xói vào lưng người bị đấu
mà kể khổ, kể tội... Chẳng qua nếu những người nông dân hiền lành thật thà mà
nhìn vào mặt người hôm qua còn là họ hàng, làng xóm, tối lửa tắt đèn có nhau
thì họ không nỡ lòng nào bịa đặt ra những tội lỗi không có, không thốt nổi
thành lời những điều vu oan giá hoạ bất nhân, bạc ác như đội dạy được. Con
người không phải dễ dàng trở thành quỷ. Phải dạy dỗ, phải huấn luyện, ông ạ. Và
không phải bao giờ người ta cũng thành công. Có nhiều người thà chết chứ không
chịu trở thành quỷ.
- Tôi tin có những người như thế.
- Điều đáng buồn là một khi đã thành
quỷ rồi thì khó trở lại làm người lắm. Tôi có chú em họ, hồi cải cách ruộng đất
còn nhỏ đã đi theo đội học đòi đấu tố, lớn lên thì vào đảng, rồi làm quan, ăn
bẩn, cho đến khi về hưu không bị sứt mẻ gì, gọi là hạ cánh an toàn. Giàu có
lắm, nhưng bị người trong họ ngoài làng xa lánh. Cũng có người cực chẳng đã
phải nhờ vả chú ấy việc này việc khác, nhưng trong thâm tâm họ đều khinh bỉ.
Chú ấy phân trần với tôi: “Thời thế nó thế thì phải thế, ai cũng phải làm phải
ăn, em cũng không thể khác, người ta không hiểu em, chứ em có lòng dạ nào làm
hại bà con.” “Nhưng họ khinh chú là phải chứ?” tôi hỏi. “Thì họ có cách nào
khác, yêu em à?”, chú ấy bùi ngùi.
- Sau vụ ấy ông trốn vào thành?
Ông Hiếu tránh nhìn tôi.
- Vâng - ông nói khẽ. Tôi còn biết
đi đâu?
- Tôi hiểu. Lúc ấy lòng ông đầy hận thù.
- Không hẳn thế. Lúc ấy trong lòng
tôi đầy mâu thuẫn thì đúng hơn. Tôi không muốn rời bỏ hàng ngũ kháng chiến.
Nhưng tôi cũng không thể ở lại. Quên, chưa nói để ông biết, ông Thạc nhìn xa đã
cấp cho tôi đủ giấy tờ cần thiết để tôi không bị lôi vào cuộc đấu tố cùng với
gia đình. Đội cải cách đã tha cho tôi trở lại đơn vị.
- Nhiều người ở trong hoàn cảnh ông
đã không “dinh tê.”
- Vâng, có người rồi còn trở thành
cán bộ cấp cao nữa, tôi biết. Họ phải trả giá đắt cho sự thăng tiến ấy, bằng sự
dối trá thường xuyên, bằng sự hàng phục tuyệt đối. Tôi không có đủ dũng khí và
lòng kiên trì để làm được như họ. Khi đã ở trong thành rồi, có nhiều lúc tôi
lại muốn trở ra vùng kháng chiến. Có một sự giằng xé như thế đấy.
Sương xuống làm tôi rùng mình. Cả
một vùng hồ Bodenzee lặng lẽ như không lúc nào nó lặng lẽ như thế.
- Ông có gia nhập quân đội Pháp
không? Tôi muốn nói ông rồi có bị bắt lính và phải chiến đấu ở phía bên kia
không?
- Không. Tôi trốn lính. Tôi không
muốn cầm súng nữa, dù ở bên này hay ở bên kia. Nhưng cũng phải thú thực với
ông: sau cái chết của cha tôi, cũng có lúc tôi có ý định đi với quân Pháp để
đánh lại những kẻ đã mang lại thảm hoạ cho gia đình tôi. Tôi cũng căm thù lắm
chứ. Nhưng tôi đã không làm điều đó nhờ một lời khuyên. Chả là lúc mới về thành
tôi ở nhờ trong một ngôi chùa. Khi biết ý định của tôi, sư cụ bảo: “Con tính
sai rồi. Đi với cái Ác này để diệt cái Ác kia không được đâu. Chỉ có cái Thiện
mới diệt được cái Ác thôi, con ạ.” Tôi nghe lời sư cụ, nhưng tôi không tìm thấy
cái Thiện ở đâu cả.
- Tìm ra cái Thiện đích thực thật là
khó. Tất cả chỉ là tương đối.
- Vì không tìm ra nó, tôi chỉ biết
làm một người dân bình thường. Nhưng đến năm 75 thì tôi hiểu — cái Ác đang
thắng, nếu không làm được gì để chống nó thì chỉ còn cách tránh xa nó, tránh
thật xa, xa chừng nào hay chừng ấy, có gọi là chạy trốn nó thì cũng đúng. Chẳng
có gì vinh quang trong chuyện ấy...
Chúng tôi đi ngủ. Đêm đã quá khuya.
Hôm sau, trong bữa điểm tâm, ông
Hiếu đột ngột ra cho tôi một câu hỏi lạ tai:
- Ông có nghĩ rằng cải cách ruộng
đất là một sai lầm như người ta thường nói không?
- Một sai lầm chứ. Đó là điều không
thể chối cãi được. Chính đảng cộng sản vốn không bao giờ chịu nhận mình sai,
cũng đã thừa nhận là thế. Người ta đã phải sửa sai ngay sau đó.
- Ông tin người ta có sửa sai?
Tôi có cảm giác ông Hiếu chỉ chờ tôi
nói khẳng định để cười vào mũi tôi. Hẳn ông có cách nhìn khác đối với việc ấy.
Tôi gật đầu.
- Họ có sửa sai. Nhưng có sửa đến
nơi đến chốn hay không lại là chuyện khác. Và còn phải sửa dài dài, bởi vì
trang sử cải cách ruộng đất cho đến nay vẫn chưa khép lại được. Nghe nói mới
đây thành phố Hà Nội vừa quyết định đền bù cho những gia đình có người bị giết
trong cải cách ruộng đất.
- Đền bù thế nào?
- Một hay hai triệu đồng gì đó cho
mỗi người bị chết oan.
Ông Hiếu cười khe khẽ:
- Tức là khoảng trên dưới một trăm
đô-la. Theo tỷ hối hiện tại.
- Khoảng ấy.
Ông Hiếu trầm ngâm nhìn vào ly cà
phê.
- Tôi thì không nghĩ đó là một sai
lầm. Nói cho đúng, bây giờ tôi mới nghĩ được như thế. Trước kia thì không.
Trước kia tôi không nghĩ ra. Một sai lầm có tính toán trước rằng kết quả nó sẽ
là như thế như thế, không thể gọi là một sai lầm — ông Hiếu thở dài. Người ta
chỉ buộc lòng gọi nó là sai lầm khi mưu toan của họ bị bóc trần.
- Cái gì làm cho ông nghĩ như thế?
- Ông nhớ lại xem. Ông sẽ thấy điều
này: ở bất cứ quốc gia nào, để tiến hành cải cách ruộng đất người ta phải điều
tra tình hình ruộng đất trước đã. Nhưng ở miền Bắc trước cải cách ruộng đất,
ông thấy không, đã không có một cuộc điều tra nào hết.
Tôi giật mình. Ý nghĩ ấy chưa từng
đến với tôi.
- Ông có lý — tôi thừa nhận. Tôi hồi
ấy ở một trong những cơ quan trung ương. Tôi không được biết có một báo cáo nào
về chuyện ấy.
- Người ta tính những cái mà hồi ấy
chúng ta không nghĩ tới. Người ta muốn thanh toán cho bằng hết những người đã
ủng hộ cuộc kháng chiến trong thời kỳ cách mạng còn trứng nước hiện đang giữ
những chức vụ trong chính quyền kháng chiến để thay vào đó những người hoàn
toàn mới. Những người hoàn toàn là của họ. Để làm gì? Để những kẻ được chia quả
thực cướp được kia, những kẻ bỗng dưng có được địa vị ăn trên ngồi trốc kia sẽ
hết mình với họ... Chỉ có chúng mới là những kẻ rất mực trung thành với họ.
- Tôi muốn hỏi thêm ông một câu.
- Ông hỏi đi.
- Tôi nghĩ ông Thạc muốn ông được
gặp mặt cụ nhà lần cuối là một ý nghĩ tốt. Ông không nghĩ thế?
Ông Hiếu cười khe khẽ. Tiếng cười
gằn nghe đầy cay đắng.
- Một ý nghĩ tốt chứ, tôi thừa nhận.
Có khi nó còn tốt hơn cả những gì tôi nghĩ nữa. Ông ấy đã giúp tôi tỉnh ngộ.
Tôi phải chịu ơn ông ấy. Nhưng tôi không cảm được cái ơn ấy, trong lòng tôi. Có
lẽ tôi tham lam chăng, khi tôi cho rằng trong những ngày ấy tôi cần một cái gì
hơn thế. Một cái gì đó chứng tỏ ông ấy đứng về phía tôi, kẻ chịu đựng một bi
kịch không đáng có. Một cái gì đó chứng tỏ ông ấy không đứng về phía những tên
đao phủ. Cái gì đó ấy sẽ an ủi tôi nhiều hơn, cho sẽ cho tôi thêm một chút niềm
tin đã mất vào con người...
3
Ít lâu sau cuộc gặp gỡ với ông Hiếu,
tôi lại gặp ông Thạc. Ông vừa về Việt Nam tham dự cuộc họp mặt truyền thống của
quân khu. Ông vui hẳn lên, khác với lần chúng tôi gặp nhau ở Stutgart. Ông kể
chuyện những đổi thay ở đất nước, chuyện Hà Nội khác trước đến không nhận ra,
chuyện ông vừa được nhận thêm một huân chương vì những công trạng trong quá
khứ...
- Ông đã gặp “Hiếu Nhà Băng” rồi hả?
Hắn nói sao?
Tôi lúng túng:
- Ông ấy vẫn nhớ ông. Nhưng ông ấy
không muốn gặp lại... Vì cuộc gặp lại ấy sẽ làm ông ấy nhớ đến những ngày ông
ấy không muốn nhớ đến nữa..
- Cái thằng... Nó mới âm lịch làm
sao! Bây giờ mà không biết quên đi quá khứ, hướng tới tương lai là ngu, là xuẩn
ngốc. Nó y như mấy thằng đang đòi dân chủ ấy, trong tụi nó có cả những thằng
cánh ta ngày trước, tức là đã từng trong quân ngũ, chúng nó mắt nhắm tịt, ương
như cua, không biết rằng nước ta bây giờ dân chủ lắm rồi, hơn hẳn ngày xưa rồi,
ngày xưa không có nhiều dân chủ là do hoàn cảnh, là chuyện bất khả kháng, chứ
bây giờ khác, bây giờ đảng ta vững mạnh, có lực lượng quân đội, công an hùng
hậu, thì cho hay chưa cho, cho nhiều hay cho ít, là chuyện của đảng, đảng không
keo xỉn trong chuyện ấy, vấn đề là phải có tính toán; cho cái gì trước cho cái
gì sau, cho vào lúc nào...
Tôi nhìn ông. Ông nói say sưa. Ông
bốc. Trong ông ấn tượng của chuyến đi đầy tràn.
- Ông Hiếu gửi lời thăm ông.
Tôi nói để mà nói.
- Thế hả? Nó chỉ gửi lời thăm thôi?
Không nói thêm gì nữa?
- Không.
- Hắn không kể cho ông nghe tôi đã
làm ơn gì cho hắn?
- Không.
Ông Thạc sa sầm mặt.
- Cái thằng vô ơn đến thế là cùng.
Để lúc nào tôi kể ông nghe đầu đuôi chuyện tôi đã làm gì cho hắn... Bây giờ
chúng mình kiếm cái gì chén đã. Chắc ông đi đường cũng đói bụng rồi.
Tôi vội vã chìa tay ra:
- Xin lỗi, hôm nay tôi mắc một cái
hẹn. Để bữa khác vậy.
Trong lòng bàn tay tôi là một vật
mềm, nhũn nhẽo.
- Ờ ờ... Tiếc quá! Có bao nhiêu
chuyện muốn kể ông nghe.
- Tiếc quá!
- Nói tóm lại, thằng Hiếu là một
thằng vô ơn, ông nhớ đấy, tôi nói với ông rồi đấy.
Ông Thạc nói theo khi tôi đã ra đến
cửa.
Vũ
Thư Hiên