
Hồi còn sung sức, cứ tới 23 tháng Chạp là tui lăng xăng phụ con bạn dzàng
quét dọn trong nhà ngoài ngõ, lau chùi bếp núc, lễ mễ cúng kiếng tiễn ông Táo
dìa trời. Con bạn của tui mau mắn lắm. Tay liền tay, miệng liền miệng, năm nào
cũng nhờ hai Táo nhà ta lên trển nhớ tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế làm ơn ban
phước cho thế giới hòa bình, muôn dân no ấm, gia đình hai họ tụi tui thân tâm
an lạc. Rồi nó lỏn lẻn xì xầm thêm cái gì thì tui hổng nghe nên hổng biết.
Nghĩ mà mắc cười. Xưa nay Táo quân ở yên trong bếp thì hổng sao, mà hễ sanh
tật làm biếng, ham dzui chạy ra đường thả dê, không bị lính bắt cũng bị mang
tiếng “công xúc tu sỉ”. Bị tại từ ngày ra đời Táo nhà ta có được mặc quần bao
giờ; cứ… ở truồng miết hà. Có điều, Táo nhà ai thì tui hổng biết, chớ hai Táo
nhà tui năm nào dìa trời cũng được con bạn dzàng sắm sửa đủ thứ cân đai áo mão
hổng thiếu món nào.
Từ ngày Táo ta theo đồng bào mình di tản qua xứ người, đặc biệt ở xứ tuyết, mỗi
năm cứ tới 23 tháng Chạp trời buốt giá, tuyết bay tá lả, nhà nhà đều thành tâm
cúng kiếng tiễn ông Táo dìa trời. Thấy hàng hàng lớp lớp nhà Táo thăng thiên mà
tội nghiệp cho mấy ổng. Là vì có “me-xừ” Táo nào được mặc quần đâu, nên “xừ”
nào cũng… lạnh teo. Riêng hai Táo nhà tui được con bạn dzàng trang bị đầy đủ
nào mũ cánh chuồn, ủng cao, nào quần là áo lụa cỡi cá chép dìa trời mà mặt mày
vênh váo hí ha hí hửng thấy… bắt ghét.
Sống ở chốn phồn hoa đô hội, văn minh dàn trời mà con bạn quê quít của tui
vẫn ôm riệt ba cái phong tục tập quán của ngày ta ngày Tết tuy mệt nhưng tui
thấy cũng dễ thưong quá xá ể.
Trước giờ giao thừa, trên bàn thờ đã đầy đủ lễ nghi: cơm nước, trái cây,
bông hoa, nhang đèn. Chờ đúng giờ giao thừa, dzợ chồng tui xênh xang áo dài
khăn đống lễ lễ đốt đèn, thắp nhang khấn vái, lạy Phật, chúc Tết nhau cung kính
như tân xong hè nhau ăn tối đêm 30.
Nói tới đêm 30 trước Tết, tui thấy xưa nay người ta chờ giờ giấc thiêng
liêng này để yêu nhau qua nhiều động tác lạ mắt lạ tai mà tình thực rất ư là hả
hê, sinh động. Riêng mấy ông mấy bà nhà thơ nhà thẩn càng lãng mạn, ướt
át hơn:
“Gập ghềnh qua những khúc đường. Cùng anh chia ngọt xẻ thương xế chiều.
Con gà nó yêu yếu sìu. Không dám thí cái mạng liều như anh”. Đọc thơ Quan
Dương, không riêng gì tui, hầu như ai cũng khoái chí tử. Xưa nay ổng mần thơ
rất chi là thoải mái. Câu nào ra câu nấy dễ ẹc như nước chảy, huê trôi.
Ông thơ Hoàng Xuân Sơn lâu nay cũng hổng thua gì ai. Đây nè: “Ôi Tết nhỏ
trong lòng xưa hỡi nhỏ. Em lớn khôn rồi đời bỗng xa khơi. Một ở. một đi. một
lần. một thuở. Tết nhỏ mất rồi. Tết nhớ thương ơi”. “Nhỏ” của ôn Hoàng
cũng như “nhỏ” của tui, giờ này nếu còn sống tại dương gian chắc cũng con đàn,
cháu đống, răng long, đầu bạc, nhăn nheo, già chát.
“Anh đến thăm em đêm 30. Còn đêm nào vui bằng đêm 30. Anh nói với người
phu quét đường. Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em”. Còn ai điệu nghệ
hơn thơ ông Nguyễn Đình Toàn.
Còn ông thơ hiền lành này nữa nè: “Em tay gối lòng nằm trong nhau mãi.
Tình thương yêu đầy hạnh phúc trong lành. Đâu dễ dại thả rơi em khỏi Tết. Nên
làm thơ là nhiệm vụ chân thành”. Thơ của ông bạn già Luân Hoán của tui hễ
đụng đâu ra thơ đó. Đầu ngọn bút của ổng hễ trào thơ ra vung vít đủ thứ chuyện
trên trời dưới đất xong thế nào cũng có người bạn trăm năm ỏn ẻn xuất hiện bay
trên những dòng thơ. Bởi tại “đâu dễ thả rơi em khỏi Thơ”.
Nhưng ngặt nhất, tội nghiệp nhất vẫn là ông bạn già Hoàng Lộc của tui. Ai
đời bị mấy con nhỏ cà chớn nó phụ bạc te tua mà vẫn vác bút chạy theo… níu áo
đề thơ, trong khi con bạn dzàng thưong yêu mình rất mực thì coi như “nơ-pa”.
Nghe ông bạn già thở than trước cơn tình phụ thấy thương:
“Ôi vợ khốn khổ nhất. Ta chỉ viết đôi bài. Người tình cà chớn nhất. Ôm
luôn… cả gia tài. Thì ra người ta yêu. Không khiến ta làm thơ. Còn đứa chuyên
phụ bạc. Mới tổn hao giấy mực”.
Riêng tui, tuy “nhất dzợ nhì trời” nhưng càng dìa già tui càng lòi ra ba cái
thói hư tật xấu: “ngủ sớm thức trễ, xà nẹo ba mớ chữ nghĩa, viết lách thì lung
tung”. Mới 9, 10 giờ tối đã lên… “động hoa vàng” ngáy khò khó kho; sáng nào con
bạn không đánh thức thì tui mần một lèo tới trưa trờ trưa trật mới bừng con mắt
dậy.
Ngày nào con bạn dzàng có dziệc ra ngoài đi chợ, đi khám bác sĩ hoặc đòi đi
đâu đó phải thức sớm thì tui giống hệt như con gà nuốt dây thun, lề mề lệt mệt,
xốc xa xốc xếch như “người lết trên mây”.
Nhưng mà nói gì thì nói, chí cốt tui vẫn thương con bạn dzàng của tui hết cỡ
thợ mộc. Nhớ hồi mới lần đầu gặp nhau cả hai đứa tui đều rụt rè rụt rẹt riết
rồi con ếch nó cũng bực mình.
Con ếch ngồi dựa gốc bưng
Nó kêu cái “quệt” biểu ưng cho rồi
Con ếch biểu ưng thì tui ưng cái rột, ngặt nỗi thuở đó nghèo rớt mồng tơi,
nhà không, cửa cũng không, tui lấy ngựa đâu mà thắng cái kiệu dzàng rước nàng
dìa dinh.
Thương em không biết để đâu
Để trong họng súng lâu lâu bóp cò
Hề hề! Xướng nghe chơi, đừng ai giựt mình. Đó là “anh” ca dao tục ngữ nói
chớ hổng phải tui. Tui thì tình thiệt như dzầy nè:
Nửa đêm chui tọt dzô mùng
Thấy em nằm mộng tui khật khùng chui ra
Nhà quê bụng dạ thiệt thà
Thương em tui lại rụt rà chui dzô
Thương em hiền như con đò
Chở tui dìa dzới câu hò dzẳng xa
Thương em tui thưong luôn… con gà
Xa quê gáy lạc giọng “à… í… o…”
Phan Ni Tấn