Tranh: Babui
Chúng tôi có quyền hội họp riêng tư, có quyền lập hội, gây quỹ, có quyền
đấu tranh, có quyền đình công đòi hỏi các quyền lợi chính đáng, phù hợp mức
lương, tương xứng với công sức lao động. (Đoàn Huy Chương aka Nguyễn Tấn Hoành)
Cuối thế kỷ trước, có lần, tôi nghe ông Hà Sĩ Phu cằn
nhằn: ”Ý thức xã hội rất thấp, trước một khó khăn chung thì phản xạ ứng xử
là tìm lối nhỏ để thích nghi riêng. Lâu ngày nhược điểm ấy phát triển thành
thói vị kỷ, vô cảm và trơ trơ trước nỗi đau chung.”
Nói như thế, về “nhược điểm” của đồng bào mình, nghe (e) hơi nặng.
Dù thế, dường như, có người vẫn chưa đã miệng nên – qua đầu thế kỷ
này – một nhân sĩ khác, Ông
Lái Gió lại (“bong”) thêm câu nữa, nặng hơn thấy rõ:” “Chúng ta
sống như một bầy gà, người ta vồ con nào con đấy chịu. Số phận đổ lên đầu gia
đình nào, gia đình đó chịu. Chưa phải gia đình mình, mà có phải gia đình mình
thì chúng ta tự nhủ là nhiều nhà khác còn bị như vậy.”
Nghe xong, tôi (trộm) nghĩ thêm rằng: ”Nhiều nhà khác không những cũng
bị như vậy mà còn bị phiền hơn như vậy rất nhiều.” Trường
hợp của gia đình ông Đoàn Huy Chương, a.k.a Nguyễn Tấn Hoành, là một nhà
(lôi thôi) như thế.
Câu chuyện, có thể, bắt đầu từ ngày 20 tháng 10 năm 2006. Hôm đó,
ông Nguyễn Tấn Hoành – với tư cách là một thành viên của Hiệp Hội Đoàn Kết Công
Nông, cùng với ba đại diện công nhân khác – đã gửi đến Bộ Chính Trị Trung
Ương (TW) Đảng CSVN Đảng Cộng Sản Việt Nam “nỗi niềm khóc hận thương tâm” – cùng với “8 điểm đề
nghị” của họ. Xin trích dẫn một đoạn, ngăn ngắn:
“Chúng tôi có quyền hội họp riêng tư, có quyền lập hội, gây quỹ, có
quyền đấu tranh, có quyền đình công đòi hỏi các quyền lợi chính đáng, phù hợp
mức lương, tương xứng với công sức lao động…”
Những “quyền” kể trên (đều) có vẻ hơi thừa đối với giới công nhân
ở những quốc gia bình thường khác. Việt Nam, tiếc thay, không phải là
một xứ sở bình thường. Do đó, Nguyễn Tấn Hoành đã bị bắt giam. Sau
gần hai năm tù, và sau khi bị hành hạ đến bầm dập, ông được phóng thích
cùng với “một bản cam kết là từ nay về sau không đấu tranh nữa nhưng ông
không đồng ý”– theo như tường thuật của phóng viên Việt Hùng (RFA) nghe được vào hôm 18 tháng 5 năm 08.
Ông bị bắt lại lần thứ hai vào ngày 23 tháng 2 năm 2010, cùng với
hai người bạn cùng chí hướng: Nguyễn Hoàng Quốc Hùng (30 tuổi) và Đỗ Thị
Minh Hạnh (26 tuổi). Tám tháng sau, cả ba bị toà
án tỉnh Trà Vinh kết án tổng cộng 23 năm tù vì tội “phá rối an
ninh nhằm chống lại chính quyền nhân dân.”
Chưa hết, qua RFA, phóng viên Tường An còn cho biết thêm rằng “cả
nhà ông đều bị bắt, trong đó có cha ông Chương là ông Đoàn văn Diên bị bắt từ
năm 2006, hiện giam tại Hố Nai. Anh cả ông Chương là ông Đoàn Huy Tâm cũng bị
bắt, em út ông Chương là Đoàn Huy Kha thì bị công an gọi lên thường xuyên vì bị
nghi ngờ có liên quan đến những họat động của ông Đoàn Huy Chương.”
Hình chụp anh Hoành tức Đoàn Huy Chương
tại SG ngày 15/05/2008. Nguồn: RFA
Mục sư Thân Văn Trường mô tả hoàn cảnh của “nhà” ông Nguyễn
Tấn Hoành là “một gia đình đang sống trên bờ vực!” Điều an ủi, nghĩ cho
cùng, là cả nhà vẫn còn sống sót – dù đa số đều sống trên bờ vực
hay sống trong tù! Tôi biết một “nhà” khác hiện không ai biết đang
sống dở, hay chết dở ra sao, ở phương Trời hoặc ngục thất nào: nhà dân
chủ Lê Trí Tuệ.
Câu chuyện bi đát về nhân vật này xin được (tạm) bắt đầu vào ngày
20 tháng 11 năm 2006. Hôm đó, ông Lê Trí Tuệ đã gửi đến tất cả những cơ quan,
cũng như mọi giới chức có thẩm quyền ở Việt Nam một lá đơn tường trình và tố
cáo dài 1438 chữ. Phần đầu – và cũng là phần chính, gồm 444 chữ – nguyên văn
như sau :
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam
Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc
Đơn Tường Trình và Tố Cáo
V/v Công An TP. Hồ Chí Minh, liên tục đàn áp, thẩm vấn, tạm giữ người
tại cơ quan công an quận 4, TP. Hồ Chí Minh chỉ vì tôi thực thi những nhân
quyền cơ bản của mình.
Tôi tên là: Lê Trí Tuệ
Sinh ngày 26/07/1979 Tại Hải Phòng.
Đăng ký Hộ khẩu thường trú: 942 Tôn Đức Thắng – Sở Dầu – Hồng Bàng – TP.
Hải Phòng.
Điện thoại: 0982.152.619, 0912.530.615
Chức vụ:
Hội Viên Hội cựu chiến binh Việt Nam
Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Công ty Cổ Phần Trí Tuệ.
Phó Chủ Tịch Công Đoàn Độc Lập Việt Nam.
Kính thưa các quý vị lãnh đạo Nhà nước CHXHCN Việt Nam và các cơ quan
truyền thông, báo chí trong và ngoài nước,
Căn cứ vào Tuyên Ngôn quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp quốc năm 1948
Căn cứ vào Tuyên Ngôn Nguyên tắc Tổng Liên Đoàn Lao Công Thế Giới [Tuyên
ngôn này đã được chấp thuận chung, trong Đại hội kỳ thứ 16 của Tổng liên đoàn
lao động Thế Giới ILO (International Labor Organizations), họp tại Luxembourg,
từ ngày 1 đến 04 tháng 10 năm 1968].
Căn cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. Điều 53 và điều 69.
Hiến Pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) nêu rõ:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà
nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý.”
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông
tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ vào những viện dẫn trên đây, làm cơ sở pháp lý dẫn tới sự ra đời
và cơ sở Thành Lập công Đoàn Độc Lập Việt Nam, tuyên bố thành lập vào ngày
20/10/2006 tại Hà Nội.
Hiện nay chúng tôi đang làm thủ tục đăng ký, để từng bước hợp Hiến và
hợp pháp theo quy định. Nhưng đáng tiếc thay tôi thường xuyên phải bị triệu tập
lên cơ quan công an Quận 4, TP. Hồ Chí Minh để làm việc, bị cản trở quyền tự do
đi lại của công dân, cản trở hoạt động khiếu nại tố cáo, ngăn cấm hoạt động xã
hội, bảo vệ quyền con người cho nhân dân Việt Nam.”
Hai ngày sau, sau khi đơn tường trình được gửi đi, Lê Trí Tuệ đã bị công an
VN bắt giữ (từ 22/10/2006 đến 26/10/2006) để tra hỏi về việc ông đã tham gia
Ban Vận Động Thành Lập Công Đoàn Tự Do ở Việt Nam.
Đến ngày 07/12/2006, trong khi Lê Trí Tuệ còn đang bị lưu giữ tại trụ sở
công an Quận IV (Sài Gòn) nhân viên an ninh đã lục lọi đồ đạc, và kiểm tra máy
vi tính của ông tại nhà trọ.
Sau đó – vào ngày 14/03/2007 – ông Lê Trí Tuệ đã bị một số công an mặc
thường phục đánh đập dã man, ngoài đường phố.
Kế tiếp, trong hai ngày ngày 29 và 30 tháng 03 năm 2007, ông Lê Trí Tuệ
lại bị bắt giữ và ép buộc tuyên bố công khai giải tán Công Đoàn Độc Lập, và làm
một bản cam kết sẽ từ bỏ tất cả những hoạt động bị nhà đương cuộc Việt Nam cáo
buộc là phản động …
Cuối cùng, ông Lê Trí Tuệ đã trốn khỏi Việt Nam – theo như tin loan của BBC, nghe được hôm 16 tháng 4 năm 2007: “Một nhà bất
đồng chính kiến Việt Nam vừa lánh nạn sang Campuchia … ông cho biết ông bị nhà
chức trách tại TP HCM chuẩn bị đưa ra xét xử.”
Câu chuyện của Lê Trí Tuệ, nếu tạm ngưng ở đây, cũng đã đủ não lòng. Sự
việc, tiếc thay, đã tiếp tục diễn ra một cách tồi tệ hơn như thế. Chỉ vài tháng
sau, ông đột nhiên biến mất. Bản tin của VOA, phát đi ngày ngày 18 tháng 5 năm 2007, cho biết: “Một
nhân vật bất đồng chính kiến Việt Nam đang được Liên Hiệp quốc bảo trợ ở
Campuchia, ông Lê Trí Tuệ, đã bị mất tích. … Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị
nạn đã đề nghị chính phủ Campuchia tìm kiếm ông Tuệ và họ vô cùng quan tâm đến
vấn đề này. Người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia, Thượng tướng Khieu Sopheak nói
rằng ông có biết về vụ việc nhưng ông không thể cung cấp thêm thông tin về vụ
mất tích hay liệu bộ nội vụ có tiến hành điều tra hay không. Đại sứ Việt Nam
tại Campuchia, ông Trịnh Bá Cầm cũng nói rằng ông không có thông tin gì về ông
Lê Trí Tuệ.”
Theo bản tin của HRW, gửi đi vào ngày 4 tháng 5 năm 2009: “Người ta
nghĩ rằng công an Việt Nam đã bắt cóc ông Lê Trí Tuệ, một trong những sáng lập
viên của Công Đoàn Độc Lập Việt Nam. Ông Lê Trí Tuệ mất tích vào tháng Năm năm
2007 sau khi đào thoát sang Căm-Bốt để xin tị nạn. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã long
trọng ghi nhận trong bản báo cáo 2008 về tình trạng nhân quyền Việt Nam rằng :
‘ông Lê Trí Tuệ hiện vẫn biệt tích… và theo một số lời đồn mật vụ của chính
quyền Việt Nam đã giết ông ta.’”
Sau đó, dường như, không ai – không một ai – nhắc nhở hay quan tâm gì
về Lê Trí Tuệ nữa. Đương sự biến mất khỏi cuộc đời này y như cảnh
của một con gà bị cáo vồ, trước sự vô cảm và trơ trơ của cả
bầy còn lại – nếu nói theo như cách ví von của Ông Lái Gió, và cách
xử dụng từ ngữ của ông Hà Sĩ Phu.
Còn ông giáo Đỗ
Việt Khoa (sau khi xem thấy cảnh một đàn trâu chiến đấu với cả bầy đàn sư
sử để cứu một con nghé) thì phẫn uất nói rằng: ”Loài trâu ngu si còn
biết làm như thế: vừa biết đấu tranh sinh tồn cho bản thân, nhưng cũng biết đấu
tranh vì đồng loại. Loài người có được như loài trâu đó không?”
Phải trả lời sao cho câu hỏi vừa nêu?
Phải giải thích ra sao với phần nhân loại còn lại, cũng như với
chính mình, và con cháu mai sau, về thái độ dửng dưng (“người ta vồ con
nào con đấy chịu”) của chúng ta hiện tại?
Ảnh Lê Trí Tuệ (April 2007)
khi vừa sang đến Campuchia. Nguồn: BBC
Cứ theo lời của một người bàng quan thì “thái độ thụ động về
chính trị của phần lớn người Việt Nam có thể được giải thích là do không hiểu
biết về thế giới bên ngoài.” (Adam Boutzan.” Vietnam
as Tunisia in waiting “Asia Times, Jan 29, 2011. Trans. Đan Thanh”).
Ồ, thì ra thế!
Nhưng thế thì giải thích thế nào về “thái độ thụ động về chính
trị” tương tự của mấy triệu người Việt đang tị nạn (chính trị)
ở nước ngoài? Tôi không tin rằng có bất cứ một tổ chức, một hội
đoàn hay đảng phái nào của người Việt hải ngoại đã lên tiếng đòi
Cao Ủy Tị Nạn, chính phủ Cambodia và nhà đương cuộc Hà Nội phải làm
sáng tỏ trường hợp (“mất tích”) của Lê Trí Tuệ.
Chủ nghĩa mặc-kệ-nó, thứ mackeno-ism ấy, theo nguyên văn lời của ông Nguyễn Hưng Quốc “là một trong những chứng bệnh hiểm
nghèo nhất của dân tộc ta hiện nay.”
Ông Đào Hiếu thì mô tả hiện tượng “im thin thít” này
là một cách “đầu hàng tập thể”! Cũng theo ông đây là chuyện “thật
đáng sợ, mà cũng đáng trách. Nhưng không biết trách ai?”
Trách thì không nhưng buồn (và buồn muốn chết luôn) thì có!
Tưởng Năng Tiến