Nhân Tết Đinh Dậu lại nhớ chiến thắng của Vua Quang Trung, cách đây 228 năm,
vào Tết Đinh Dậu. Nhiều bản tin báo chí trong nước tường thuật lễ kỷ niệm
“chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa 1789” viết rằng “…đồn trại giặc ở Khương Thượng
bị phá hủy khiến tên Thái Thú Điền Châu Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử…” Gò
Đống Đa nằm ở Khương Thượng, phía Tây Nam thành Thăng Long.
Trong lời tường thuật trên có chi tiết không đúng, là “Thái Thú Điền Châu
Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử.” Nhưng không thể trách tác giả viết câu trên, vì
hầu hết các sách lịch sử ở miền Nam cũng như miền Bắc, đều kể rằng Sầm Nghi
Đống tự ải. Những người không theo dõi các cuộc nghiên cứu lịch sử mới đều lập
lại như vậy.
Thực ra, Sầm Nghi Đống không giữ chức “thái thú” của Điền Châu, vì quan chế
đời nhà Thanh không phong chức đó. Ông ta chỉ giữ chức “tri châu,” tức là đứng
đầu một vùng sắc tộc thiểu số, ở Điền Châu, bên Tàu. Và ông ta đã chết trận,
chứ không tự ải. Chúng ta biết được điều này, cũng như nhiều điều mới về Vua
Quang Trung, nhờ các công trình nghiên cứu của học giả Nguyễn Duy Chính; năm
ngoái ông mới xuất bản 4, 5 cuốn sách về lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn. Theo
Nguyễn Duy Chính, dẫn từ Cao Tông Thực Lục, một tài liệu của cung đình
nhà Thanh, thì “…truy cứu những người sang đánh An Nam (sic) chết trận có thổ
tri châu Điền Châu là Sầm Nghi Đống,…” (và kể thêm tên những người khác). Tài
liệu này ghi chép về thời Cao Tông, tức Vua Càn Long là người sai quân sang
đánh nước ta, nằm trong bộ Thanh Thực Lục, in năm 1986 tại Bắc Kinh.
Nguyễn Duy Chính đã tìm tòi rất nhiều tài liệu để soạn các bộ sách mới về
thời Tây Sơn, đặc biệt về Vua Quang Trung. Ông đã dùng các bộ sử nhà Thanh, các
bản báo cáo của quan lại gửi về và những thư trả lời, những mệnh lệnh của Vua
Càn Long, những văn kiện rao đổi giữa triều đình nhà Thanh và Việt Nam, để viết
những cuốn Việt Thanh Chiến Dịch, Việt Thanh Nghị Hòa, Giả Vương Nhập Cận,
vân vân. Giới sử học trong và ngoài nước đều công nhận đây là những công trình
đóng góp lớn lao vào sử học nước ta. Tuy tốt nghiệp tiến sĩ về quản trị kinh
doanh và tin học ứng dụng, và làm việc chuyên môn trong các nghề này ở
California, nhưng trong vài chục năm qua Nguyễn Duy Chính đã bỏ công đi tìm tài
liệu ở Bắc Kinh, Đài Bắc, Việt Nam, các thư viện ở Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Nam Hàn,
vân vân, cung cấp cho độc giả người Việt những hiểu biết mới về một đoạn lịch
sử oanh liệt, bi hùng, trong một thời kỳ nhiễu nhương nhất của dân tộc.
Câu chuyện Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử trên đây chỉ là một thí dụ về những
điều chúng ta vẫn biết lầm về thời Vua Quang Trung. Thực ra, có hàng trăm điều
quan trọng vẫn bị hiểu lầm về người anh hùng độc đáo này. Hãy nêu mấy câu hỏi
làm thí dụ: Vua Quang Trung có sang Trung Quốc diện kiến vua Càn Long hay
không? Vua Quang Trung có xin cưới công chúa nhà Thanh hay không? Ngài có ý đòi
nhà Thanh trả lại đất Quảng Đông hay Quảng Tây cho Việt Nam hay không?
Trong cuốn Giả Vương Nhập Cận, Nguyễn Duy Chính đã chứng minh rằng
Quang Trung đã đích thân sang dự lễ mừng thọ của Càn Long, mà việc này chính là
một hành động ngoại giao giúp cho bang giao giữa hai nước được hòa bình sau khi
Quang Trung đánh đuổi quân Thanh.
Chúng ta cũng biết thêm rằng vào năm 1792, Vua Quang Trung đã cho người đề
nghị Phúc Khang An, tổng đốc Lưỡng Quảng, làm môi giới xin hỏi cưới con gái vua
nước Tàu, và đòi lại bẩy châu thuộc vùng Hưng Hóa của nước ta cũ, đã bị nhà
Minh chiếm từ đầu thế kỷ 15. Nhưng có lẽ Phúc Khang An không bao giờ có dịp
trình các vấn đề này cho vua Càn Long, vì khi về đến Bắc Kinh ông ta được phái
đi ngay sang Tây Tạng, suốt hai năm, khi ông trở về thì Quang Trung đã qua đời.
Hơn nữa, Nguyễn Duy Chính đã truy cứu “sổ gia đình” của Càn Long, và thấy rằng
ông này có 17 con trai và 10 con gái, nhưng cô con gái út cũng đã lấy chồng từ
năm Kỷ Dậu, 1789, năm chiến thắng Đống Đa! Tuy nhiên, nhờ có chuyện cầu hôn
không thành này cho nên đời sau được đọc những bức thư trao đổi giữa Phúc Khang
An và Ngô Thời Nhiệm. Khi họ Phúc nêu lên một khó khăn là nhà Thanh không bao
giờ gả các công chúa cho người ngoại tộc, họ Ngô đã đáp lại rằng điều luật này
chỉ áp dụng đối với người Hán, còn người Mông Cổ vẫn cưới con gái hoàng tộc nhà
Thanh, do đó, người Việt cũng phải được đối xử ngang hàng với Mông Cổ!
Ba câu hỏi trên đây chỉ là những thắc mắc đã gây tranh luận nhiều trong giới
sử học trong hàng thế kỷ qua. Ngoài ra, còn rất nhiều chuyện người ta không
thắc mắc, do đó cũng không bàn luận, nhưng biết không đích xác và sai lầm, nay
được phủ chính. Chẳng hạn, sách giáo khoa môn Sử thường viết rằng sau khi nghe
tin quân Thanh xâm lược Vua Quang Trung mới lên ngôi hoàng đế, mục đích lấy
chính danh kháng địch. Nhưng trong Việt Thanh Chiến Dịch Nguyễn Duy
Chính đã kể rằng nhà vua làm lễ lên ngôi trước khi quân Thanh sang đánh, do
nhiều bằng chứng. Từ Tháng Tám năm Mậu Thân, Quang Trung đã phong cho con lên
tước Vương, có nghĩa rằng nhà vua đã tự coi mình là một hoàng đế. Nhật ký của
các giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo chép rằng nhà vua lên ngôi ngày 8 Tháng Mười
Một năm 1788, họ còn dịch bản hịch văn của Quang Trung sang tiếng Pháp. Tôn Sĩ
Nghị chỉ tiến quân vào nước ta ngày 25 Tháng Mười Một năm đó.
Nguyễn Duy Chính còn cung cấp nhiều điều chưa hề được kể trong sử sách. Ông
mô tả chiến thuật dùng voi trận để áp đảo đám quân Thanh chỉ gồm lính bộ và
cưỡi ngựa. Kỹ thuật công đồn của quân Tây Sơn được mô tả với nhiều chi tiết,
như dùng ván gỗ có bánh xe nhồi rơm che chở binh sĩ tiến đến chân đồn địch, rồi
dùng ván làm cầu vượt qua hào nước hay hào chông. Sau đó rơm lại được dùng làm
vật dẫn hỏa để đốt các cơ sở, nhà cửa, kho lẫm của quân địch. Nguyễn Duy Chính
còn cho biết kỹ thuật công đồn này rất thông dụng ở miền Đông Nam Á, xuất phát
từ miền Nam Á. Ông cũng trả lời những thắc mắc như: Tại sao trong số các vị chỉ
huy của quân Tây Sơn lại nhiều người là đô đốc, với tên gọi nhưng không nói họ
là gì? Tôn Sĩ Nghị có mải mê tiệc tùng rượu thịt ăn Tết nên bị đánh bất ngờ hay
không? (Không!) Tại sao Tôn Sĩ Nghị thất trận mà không bị xử tội nặng? (Vì Càn
Long cũng có lỗi!)
Với các tài liệu mới, Việt Thanh Chiến Dịch còn cho biết vua quan
nhà Thanh đã tính bảo trợ cho Lê Chiêu Thống về nước rồi sẽ công nhận cả nhà
Tây Sơn, phân chia nước ta làm đôi như thời Trịnh Nguyễn cũ. Đó cũng là một lý
do khiến quân Thanh không đuổi đánh khi quân của Ngô Văn Sở rút lui. Ngược lại,
Càn Long còn ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị lui quân sau khi đưa được vua Chiêu Thống
về đến “Lê thành,” tức Hà Nội bây giờ. Điều này giải thích tại sao Tôn Sĩ Nghị
chạy về Tàu vẫn tự biện hộ rằng mình đã làm đúng ý cấp trên, về sau vẫn được
trọng dụng.
Nguyễn Duy Chính trích dẫn nhiều lời khai của các quân nhà Thanh trở về xứ
sau khi được trả tù binh, theo tài liệu Quân Cơ Xứ, còn tàng trữ trong Cố Cung
Bác Vật Viện ở Đài Bắc. Một tù binh được thả kể khi chạy qua sông Nhị Hà, đến
cầu phao thì cầu đã bị Tôn Sĩ Nghị sai phá vì sợ quân ta truy đuổi, “Cầu đã bị
đứt chìm xuống nước, lại thêm số người ngựa bị trận voi đốt cháy chết chồng lên
nhau đè cây cầu xuống sâu hơn. Người chạy qua đạp chân trên xác những người nằm
dưới nước, chỉ có đầu nổi lên, phải đến ba dặm mới qua tới bờ bên kia; quần áo
giầy dép ướt sũng, bỏ hết cả ngựa, cả yên cương trên cầu.”
Đọc biểu chương của các quan Tàu, mới biết Tôn Sĩ Nghị khoe rằng đã quyết
lên ngựa tử chiến với quân ta, nhưng bị Hứa Thế Hanh ngăn cản, lấy lý do nếu
Nghị chết thì “quan hệ đến quốc thể!” Sau khi bị các tướng níu cương ngựa không
cho đi mấy lần, Tôn Sĩ Nghị mới nghĩ rằng Hứa Thế Hanh nói có lý. Nghị bèn bỏ
trốn, Hứa Thế Hanh ở lại, chết trận.
Mỗi năm vào dịp Tết người Việt Nam vẫn kỷ niệm chiến thắng năm Kỷ Dậu của
vua Quang Trung. Nhưng phải nói rằng nếu chỉ học lịch sử ở trường trung học thì
chúng ta biết rất ít về vị anh hùng kiệt xuất này. Những công trình nghiên cứu
của Nguyễn Duy Chính cung cấp rất nhiều điều mới. Thí dụ, một tài liệu của Hội
Truyền Giáo Bắc Hà kể rằng trong trận Ngọc Hồi, Quang Trung cưỡi voi xung trận,
quân sĩ thấy chủ tướng còn trên voi thì yên tâm. Nhưng khi nhìn thấy binh sĩ
không đủ hăng hái, nhà vua bèn bỏ voi mà cưỡi ngựa để xung phong cùng tướng sĩ
của mình. Ông dùng hai đoản đao, chạy ngang chạy dọc, chém rơi đầu nhiều sĩ
quan và binh lính bên địch. Một thí dụ khác, khi quân Thanh kéo sang nước ta,
họ còn đúc một thứ tiền tệ riêng, đồng tiền mang niên hiệu Càn Long, nhưng mặt
kia viết hai chữ An Nam. Quân Thanh đi tới đâu lại mua hàng hóa, thực phẩm và bắt
dân Việt phải nhận đồng tiền “giải phóng” này! Ăn cướp bằng thủ thuật “đổi
tiền” đã được quân xâm lược sử dụng từ hai thế kỷ trước khi được áp dụng lại ở
miền Nam sau năm 1975!
Càng biết thêm về lịch sử dân tộc, người Việt càng ý thức kẻ xâm lăng từ đâu
tới, với những âm mưu quỷ quyệt của họ như thế nào. Nhớ ơn Vua Quang Trung,
người Việt càng vững tin vào ý chí độc lập bất khuất của dân tộc!
Ngô Nhân Dụng