Nếu ai hỏi tôi rằng sau ngày 30 tháng 4, 1975 cái gì mà cộng
sản không thể "giải phóng" được; cái gì vẫn âm thầm nhưng vũ bão giải
phóng ngược lại tâm hồn khô khốc của người dân miền Bắc lẫn nhiều cán binh cộng
sản; cái gì vẫn miệt mài làm nhân chứng cho sự khác biệt giữa văn minh và man rợ,
giữa nhân ái và bạo tàn, giữa yêu thương và thù hận; cái gì đã kết nối tâm hồn
của những nạn nhân cộng sản ở cả hai miền Nam Bắc... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền
Nam.
Nếu ai hỏi tôi, ảnh hưởng lớn nhất để tôi trở thành người
ngày hôm nay, biết rung động trước hình ảnh của Ngoại già lầm lũi quang gánh đổ
bóng gầy dưới ánh đèn vàng, biết nhung nhớ một khe gió luồn qua hai tấm ván hở
của vách tường ngày xưa nhà Mẹ, biết man mác buồn mỗi khi đến hè và trống vắng
với một tiếng gà khan gáy ở sau đồi, biết tiếc nuối một mặt bàn lớp học khắc nhỏ
chữ tắt tên người bạn có đôi mắt người Sơn Tây, biết ngậm ngùi trăn trở chỉ vì
một tiếng rao hàng đơn độc đêm khuya... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.
Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành một chất keo gắn chặt cuộc đời
tôi vào mảnh đất mang tên Việt Nam. Âm Nhạc Miền Nam đã làm tôi là người Việt
Nam.
*
Tôi lớn lên theo những con đường đất đỏ bụi mù trời và cây
reo buồn muôn thuở. Niềm say mê âm nhạc đơm mầm từ các anh lớn của Thiếu và Kha
đoàn Hướng Đạo Việt Nam, trổ hoa theo những khúc hát vang vang của các anh giữa
vùng trời Đạt Lý đang vào mùa cà phê hoa trắng nở: "Tôi muốn mọi người
biết thương nhau. Không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa
thương đau. Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu..." Các bậc đàn anh như nhạc
sĩ Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang của Phượng Hoàng đã lót đường nhân ái cho đàn
em nhỏ chúng tôi chập chững trở thành người, để biết ngước mặt nhìn đời và "cười
lên đi em ơi, dù nước mắt rớt trên vành môi, hãy ngước mặt nhìn đời, nhìn tha
nhân ta buông tiếng cười..."
Những đêm tối, giữa ngọn đồi nhiều đại thụ và cỏ tranh, bên
nhau trong ánh lửa cao nguyên chập chờn, chúng tôi cảm nhận được niềm hãnh diện
Việt Nam với bước chân của cha ông và bước chân sẽ đi tới của chính mình: "Ta
như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng. Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa
xăm. Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng chân tươi. Ôm vết thương rĩ máu ta cười
dưới ánh mặt trời..." Và anh Nguyễn Đức Quang, người nhạc sĩ của thị
xã đèo heo hút gió đã trở thành thần tượng của chúng tôi. Có những buổi chiều
buông trong Rừng Lao Xao bạt ngàn, những đứa bé chúng tôi theo anh ngậm ngùi số
phận "Xương sống ta đã oằn xuống, cuộc bon chen cứ đè lên. Người vay nợ
áo cơm nào, thành nợ trăm năm còn thiếu. Một ngày một kiếp là bao. Một trăm năm
mấy lúc ngọt ngào. Ôi biết đến bao giờ được nói tiếng an vui thật thà."
Nhưng cũng từ anh đã gieo cho chúng tôi niềm lạc quan tuổi trẻ: "Hy vọng
đã vươn lên trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa
chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong nhục nhằn tràn nước mắt. Hy vọng đã vươn
dậy như làn tên..." Và từ anh, chúng tôi hát cho nhau "Không
phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi. Mà phải cùng nhau ta làm cho tươi mới."
Cô giáo Việt văn của tôi đã mắng yêu tôi - tụi em thuộc nhạc Nguyễn Đức Quang
hơn thuộc thơ của Nguyễn Công Trứ!
Nguyễn Công Trứ. Đó là ngôi trường tuổi nhỏ có cây cổ thụ
già, bóng mát của tuổi thơ tôi bây giờ đã chết. Tôi nhớ mãi những giờ cuối lớp
tại trường, Cô Trâm cho cả lớp đồng ca những bài hát Bạch Đằng Giang, Việt Nam
Việt Nam, Về Với Mẹ Cha... Đứa vỗ tay, đứa đập bàn, đứa dậm chân, chúng tôi nở
buồng phổi vang vang lên: "Từ Nam Quan, Cà Mau. Từ non cao rừng sâu. Gặp
nhau do non nước xây cầu. Người thanh niên Việt Nam. Quay về với xóm làng. Tiếng
reo vui rộn trong lòng..." Nhìn lên lớp học lúc ấy, có những biểu ngữ
thủ công nghệ mà cô dạy chúng tôi viết: Tổ quốc trên hết, Ngày nay học tập
ngày sau giúp đời, Không thành công cũng thành Nhân... Nhưng đọng lại trong
tôi theo năm tháng vẫn là những câu hát "Tình yêu đây là khí giới, Tình
thương đem về muôn nơi, Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người..."
Cô giáo của tôi đã ươm mầm Lạc Hồng vào tâm hồn của chúng
tôi và cứ thế chúng tôi lớn lên theo dòng suối mát, theo tiếng sóng vỗ bờ, theo
tiếng gọi lịch sử của âm nhạc Việt Nam, để trở thành những công dân Việt Nam
yêu nước thương nòi và hãnh diện về hành trình dựng nước, giữ nước của Tổ tiên.
Trong cái nôi nhiều âm thanh êm đềm nhưng hùng tráng ấy, trừ
những ngày tết Mậu Thân khi tiếng đạn pháo đì đùng từ xa dội về thành phố, cho
đến lúc chui xuống gầm giường nghe tiếng AK47 và M16 bắn xối xả trước nhà vào
ngày 10 tháng 3, 1975, tuổi thơ tôi được ru hời bởi dòng nhạc trữ tình của miền
Nam để làm nên Những Ngày Xưa Thân Ái của chúng tôi.
Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai
Anh còn gì cho tôi tôi còn gì cho em
Chỉ còn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù
Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho em...
Các anh, những người anh miền Nam đã khoát áo chinh nhân lên
đường đối diện với tử sinh, làm tròn lý tưởng Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm,
đã hy sinh cuộc đời các anh và để lại sau lưng các anh những ngày xưa thân ái
cho đàn em chúng tôi. Nhờ vào các anh mà chúng tôi có những năm tháng an lành
giữa một đất nước chiến tranh, triền miên khói lửa.
Lần đầu tiên, chiến tranh tưởng như đứng cạnh bên mình là
khi chúng tôi xếp hàng cúi đầu đưa tiễn Thầy của chúng tôi, là chồng của cô
giáo Việt Văn, một đại úy sĩ quan Dù đã vị quốc vong thân. Cô tôi, mồ côi từ nhỏ,
một mình quạnh quẻ, mặc áo dài màu đen, tang trắng, đứng trước mộ huyệt của người
chồng còn trẻ. Cô khóc và hát tặng Thầy lần cuối bản nhạc mà Thầy yêu thích lúc
còn sống - "Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo... Đôi chúng ta sẽ
chẳng còn nhìn nhau nữa! Trên cõi đời này, trên cõi đời này. Từ nay mãi mãi
không thấy nhau..."
Và tôi say mê Mùa Thu Chết từ dạo đó. Trong những cụm hoa thạch
thảo đầy lãng mạn ấy có đau thương đẫm nước mắt của Cô tôi. Có hình ảnh lá cờ
vàng ba sọc đỏ phủ nắp quan tài của người Thầy Đại úy Sĩ quan Binh chủng Nhảy
Dù vào mùa Hè hầm hập gió Nồm năm ấy.
*
Từ những ngày xa xăm tuổi nhỏ, những người lính VNCH là thần
tượng của chúng tôi. Tôi mơ được làm một người lính Dù bởi anh là loài chim
quý, là cánh chim trùng khơi vạn lý, là người ra đi từ tổ ấm để
không địa danh nào thiếu dấu chân anh, và cuối cùng anh bi hùng ở lại
Charlie. Giữa những đau thương chia lìa của chiến tranh, những dòng nhạc của Trần
Thiện Thanh đã cho tôi biết thương yêu, kính trọng những người lính không chân
dung nhưng rất gần trong lòng chúng tôi. Những"cánh dù ôm gió, một cánh
dù ôm kín đời anh" cũng là những cánh dù ôm ấp lý tưởng đang thành
hình trong tâm hồn tuổi nhỏ của chúng tôi.
Nhìn lại quãng thời gian binh lửa ấy, tôi nhận ra mình và
các bạn cùng lứa không hề biết rõ Phạm Phú Quốc là ai, chỉ biết và say mê huyền
sử của một người được "Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời. Đặt tên
cho anh, anh là Quốc. Đặt tên cho anh, anh là Nước. Đặt tên cho Người. Đặt
tình yêu Nước vào nôi", chỉ ước ao một ngày chúng tôi cũng được như
anh, cũng sẽ là những "Thần phong hiên ngang chẳng biết sợ gì!"
Chúng tôi, nhiều đứa núi đồi, rừng rú, chưa bao giờ thấy biển nhưng thèm thuồng
màu áo trắng và đại dương xanh thẳm, thuộc lòng câu hát "Tôi thức từng
đêm, thơ ấu mà nghe muối pha trong lòng. Mẹ là mẹ trùng dương, gào than từ bãi
trước ghềnh sau. Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi. Nên năm hăm
mốt tuổi, tôi đi vào quân đội. Mà lòng thì chưa hề yêu ai". Chúng tôi
cũng không tìm đọc tiểu sử, cuộc chiến đấu bi hùng của Đại tá Nhảy Dù Nguyễn
Đình Bảo, cũng không biết địa danh Charlie nằm ở đâu, nhưng Đại tá Nguyễn Đình
Bảo là biểu tượng anh hùng của chúng tôi để chúng tôi thuộc lòng khúc hát "Toumorong,
Dakto, Krek, Snoul. Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu. Anh! Cũng anh vừa
ở lại một mình, vừa ở lại một mình. Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị
thành." Chúng tôi không biết "Phá" là gì, "Tam
Giang" ở đâu, nhà thơ Tô Thùy Yên là ai, nhưng "Chiều trên phá Tam
Giang anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận. Em ơi, em
ơi..." đã thân thiết chiếm ngự tâm hồn để chúng tôi biết thương
những người anh chiến trận đang nhớ người yêu, nhớ những người chị, cô giáo của
chúng tôi ngày ngày lo âu, ngóng tin từ mặt trận xa xăm.
Trong cái nôi của những ngày xưa thân ái ấy, từ nơi khung trời
đầy mộng mơ của mình chúng tôi chỉ biết đến nỗi niềm của các anh bằng những "Rừng
lá xanh xanh lối mòn chạy quanh, Đời lính quen yêu gian khổ quân hành".
Giữa mùa xuân pháo đỏ rộn ràng con đường tuổi thơ thì chính âm nhạc nhắc cho những
đứa bé chúng tôi biết đó cũng là "ngày đầu một năm, giữa tiền đồn heo
hút xa xăm, có người lính trẻ, đón mùa xuân bằng phiên gác sớm". Giữa
những sum vầy bình an bên cạnh mai vàng rực rỡ, thì ở xa xăm có những người con
rưng rưng nhớ đến Mẹ già và gửi lời tha thiết "bao lứa trai cùng chào
xuân chiến trường, không lẽ riêng mình êm ấm, Mẹ ơi con xuân này vắng
nhà..." Âm nhạc Việt Nam đã gieo vào tâm hồn chúng tôi hình ảnh rất
bình thường, rất người, nhưng lòng ái quốc và sự hy sinh của thế hệ đàn anh
chúng tôi - những người lính VNCH - thì ngời sáng. Và chúng tôi biết yêu
thương, khâm phục, muốn noi gương các anh là cũng từ đó.
*
Sau ngày Thầy hy sinh, chúng tôi gần gũi với Cô giáo Việt
Văn của mình hơn. Nhiều đêm thứ bảy, tôi và các bạn ghé nhà thăm Cô. Đó là lúc
chúng tôi đến với Một thời để yêu - Một thời để chết. Chúng tôi bắt đầu chạm
ngõ tình yêu với những Vũng lầy của chúng ta, Con đường tình ta đi, Bây giờ
tháng mấy, Ngày xưa Hoàng Thị, Tình đầu tình cuối, Em hiền như Ma Soeur, Trên đỉnh
mùa đông, Trả lại em yêu... Đó là lúc Cô đọc thơ Chiều trên Phá Tam Giang của
Tô Thùy Yên cho chúng tôi nghe, giảng cho chúng tôi về tài nghệ "thần sầu"
của Trần Thiện Thanh trong lời nhạc "anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ...
ôi niềm nhớ........ đến bất tận. Em ơi... em ơi!..." khi diễn tả nỗi
nhớ ngút ngàn, và sau đó chú Trần Thiện Thanh Toàn - em ruột của nhạc sĩ
Nhật Trường ở Sài Gòn lên thăm Cô, vừa đàn vừa hát. Những buổi tối này, mình
tôi ở lại với Cô tới khuya. Cô đọc thơ và hát nhạc phổ từ thơ của Nguyễn Tất
Nhiên, chỉ cho tôi tính lãng đãng của lời nhạc Từ Công Phụng, khắc khoải của Lê
Uyên Phương, mượt mà của Đoàn Chuẩn - Từ Linh, sâu lắng của Vũ Thành An... Và
qua âm nhạc, Cô kể tôi nghe chuyện tình của Cô và Thầy. Hai người đến với nhau
khởi đi từ bản nhạc mà Cô hát khi Cô còn là nữ sinh Đệ Nhất và Thầy là Sinh
Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Bản nhạc ấy có những dòng như sau:
"Nhưng anh bây giờ anh ở đâu
con ễnh ương vẫn còn gọi tên anh trong mưa dầm
tên anh nghe như tiếng thở dài của lòng đất mẹ
Dạo tháng Ba tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa
nghe như tiếng gầm phẫn nộ đến từ cuối trời."
Thầy và cô tôi yêu nhau từ sau khúc hát Người Tình Không
Chân Dung ấy và "người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy
này" cũng là định mệnh Thầy, của cuộc tình bi thương giữa một cô giáo
trẻ và người lính VNCH.
Cô tôi sống một mình và qua đời vào năm 2010. Bạn cùng lớp của
tôi là Phương lùn, vào một ngày cuối năm, từ Sài Gòn trở về Ban Mê Thuột, xách
đàn đến trước mộ Cô và hát lại "Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo"
để thay mặt những đứa học trò thơ ấu kính tặng hương hồn của Cô. Còn tôi, năm
tháng trôi qua nhưng tôi biết rõ trong dòng máu luân lưu và nhịp đập của tim
mình vẫn đầy tràn những thương yêu mà Cô đã gieo vào tôi bằng Âm Nhạc Miền Nam.
*
Một buổi tối chúng tôi ngồi hát với nhau. Các bạn từ Hà Nội,
Nam Định, Yên Bái, Đà Nẵng, Sài Gòn... nhưng chỉ có mình tôi là sinh ra và lớn
lên trước 1975. Các bạn tôi, hay đúng ra là những người em đang cùng đồng hành
trên con đường đã chọn, đã thức suốt đêm hát cho nhau nghe. Rất tự nhiên, rất
bình thường: toàn là những ca khúc của miền Nam thân yêu.
Đêm hôm ấy, cả một quãng đời của những ngày xưa thân ái
trong tôi sống lại. Sống lại từ giọng hát của những người em sinh ra và lớn lên
trong lòng chế độ độc tài. Các em hát cho tôi nghe về những người lính miền Nam
mà các em chưa bao giờ gặp mặt "Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó, đem dấu
chân soi tuổi đời ngây thơ, đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ, anh sẽ ra
đi chẳng mong ngày về...". Tôi hát cho các em mình về những ngày
tháng mộng mơ trước "giải phóng" của những "Con đường tuổi
măng tre, nắng vàng tươi đẹp đẽ, bóng người dài trên hè, con đường tình ta
đi..." Các em tâm sự về cảm nhận đối với người lính VNCH qua những
dòng nhạc êm đềm, đầy tình người giữa tàn khốc của chiến tranh: "Tôi
lại gặp anh, người trai nơi chiến tuyến, súng trên vai bước lê qua đường
phố; tôi lại gặp anh, giờ đây nơi quán nhỏ, tuổi 30 mà ngỡ như
trẻ thơ".. Tôi chia sẻ với các em về nỗi ngậm ngùi quá khứ:
"Như phai nhạt mờ, đường xanh nho nhỏ, hôm nay tình cờ, đi lại đường
xưa đường xưa. Cây xưa còn gầy, nằm phơi dáng đỏ, áo em ngày nọ, phai
nhạt mây màu, âm vang thuở nào, bước nhỏ tìm nhau tìm nhau"...
Đêm ấy, khi các bạn nói lên cảm nhận về những mượt mà, êm ả,
nhân ái của Âm Nhạc Miền Nam, tôi đã tâm sự với các bạn rằng: Chỉ cần lắng nghe
và hát lên những dòng nhạc ấy, các em sẽ hiểu thấu được những mất mát khủng khiếp
của con người miền Nam. Những mất mát không chỉ là một cái nhà, một mảnh đất,
mà là sự mất mát của cả một đời sống, một thế giới tâm hồn, một đổ vỡ không bao
giờ hàn gắn lại được. Khi những mượt mà, nhân ái ấy đã bị thay thế bởi những "Bác
cùng chúng cháu hành quân" và "Tiến về Sài Gòn"
thì các em hiểu được tuổi thanh xuân và cuộc đời của những thế hệ miền Nam đã bị
đánh cắp hay ăn cướp như thế nào.
*
Gần 42 năm trôi qua, Âm Nhạc Miền Nam vẫn như dòng suối mát
trôi chảy trong tâm hồn của người dân Việt. Chảy từ đồng bằng Cửu Long, xuôi ngược
lên Bắc, nhập dòng sông Hồng để tưới mát tâm hồn của mọi người dân Việt đang bị
thiêu đốt bởi ngọn lửa bạo tàn cộng sản. Dòng suối trong mát ấy cũng cuốn phăng
mọi tuyên truyền xảo trá của chế độ về xã hội, con người miền Nam trước 1975
cũng như về tư cách, phẩm giá, lý tưởng của những người lính VNCH và tình cảm
trân quý, yêu thương của người dân miền Nam dành cho họ.
Gần 42 năm trôi qua, trong tuyệt vọng của những kẻ thật sự
đã thua trận trong cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, nhà cầm quyền cộng sản
đã tìm mọi cách để tiêu diệt Âm Nhạc Miền Nam. Nhưng họ không biết rằng, dòng
âm nhạc đó không còn là những bản in bài hát, những CD được sao chép, bán
buôn... Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành máu huyết và hơi thở của người dân Việt,
bất kể Bắc - Trung hay Nam, bất kể sinh trưởng trước hay sau 1975. Bạo tàn và
ngu dốt có thể đem Âm Nhạc Miền Nam vào những danh sách cấm đoán vô tri vô
giác, nhưng không bao giờ đem được Âm Nhạc Miền Nam ra khỏi con người Việt Nam.
Ai giải phóng ai? Hãy hỏi Con Đường Xưa Em Đi và đốt
đuốc đi tìm xem Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân đang nằm trong cống rãnh
nào trên những con đường Việt Nam!!!
Vũ Đông Hà