Ở Mỹ, gia đình Thùy có thêm một “phong tục”
mới: Thứ Sáu cuối tuần, trúng ngày lãnh lương, cả nhà đi ăn tiệm. Mỗi lần một
tiệm ăn mới của Việt Nam, Đại Hàn, Tầu, Nhựt, Pháp, Ấn, và Mỹ. Thay phiên nhau,
lần lượt mỗi người được chọn một nhà hàng mình thích và luôn luôn thử những món
lạ.
Thùy bảo các con:
– Không thử thì làm sao biết ngon hay dở. Nếu ngon, ráng nhớ lấy. Dở thì
cũng nhớ để lần sau tránh xa.
Hướng dẫn các con tìm món ngon, nhưng đồng thời cũng dậy chúng tìm hiểu, làm quen
với những phong tục, truyền thống, văn hóa mới… Thế giới nhỏ lại, loài người
gần gũi nhau lắm rồi.
Hôm đó là Thứ Sáu “ăn tiệm”.
Khoảng 4 giờ 50 Thùy đang sắp xếp lại bàn giấy cho gọn trước khi ra về thì
chuông điện thoại reo. Thùy lưỡng lự. Hết giờ làm việc rồi. Nhưng đến hồi
chuông thứ tư thì đành nhấc máy. Đầu kia có tiếng khóc nức nở:
– Bà ơi, bà phải giúp em!
– Tôi sẵn sàng giúp. Nhưng cô đừng khóc. Cô phải nín thì nói tôi mới hiểu.
Im lặng một chút rồi tiếng nói rõ ràng hơn:
– Thưa bà, em là Mỹ Lệ, em cần gặp bà gấp.
– Tôi rất tiếc. Bây giờ hết giờ làm việc rồi. Sở đóng cửa. Tôi lại có công việc
phải đi. Thứ Hai cô đến được không?
– Thưa bà, em không biết em có thể chờ đến thứ hai được không! Em sợ em chết
trước ngày đó.
– Ủa, sao vậy? Cô có bịnh không, nếu bịnh thì phải gọi xe cấp cứu. Tôi có thể
gọi giùm cô ngay…
– Dạ, em không bịnh, em chỉ muốn gặp bà ngay bây giờ.
– Tôi sắp ra xe thì cô gọi. Bây giờ không được vì tôi phải đi và sở cũng đóng
cửa rồi. Sáng sớm thứ hai cô đến văn phòng tôi. Cô sẽ là người đầu tiên tôi
tiếp.
Đầu kia im lặng làm Thùy hoang mang, lo lắng. Nhưng rồi giọng người đàn bà hết
cuống quýt, bối rối, bình tĩnh lại:
– Vậy cũng được. Bà hứa với em nghe bà. Tên em là Mỹ Lệ.
– Tôi hứa.
Mỹ Lệ cám ơn, giọng tỉnh táo, không còn lẫn trong tiếng thút thít. Coi bộ đầu
giây kia đã tạm ổn rồi. Đến phiên tâm trí Thùy bất ổn, ngổn ngang những câu
hỏi: Việc gì mà gấp vậy kìa? Làm sao phải khóc sướt mướt như có người thân vừa
qua đời?
Đến tiệm, thấy Brian và hai con đã ngồi vào bàn. Lily, Nina cầm menu bàn luận,
chọn lựa, Brian đăm đăm nhìn ra cửa chờ nàng.
– Xin lỗi mọi người. Đến trễ chút đỉnh vì có một “khách hàng’ gọi điện thoại,
muốn gặp tôi vào phút chót.
“Không sao đâu. Chúng tôi cũng vừa tới.”
Brian vui vẻ nói. Rồi ông nhận ngay ra vẻ mặt kém vui của Thùy:
– Có chuyện gì làm honey bận tâm?
Thùy kể lại. Brian trấn an ngay:
– Cưng đừng lo lắng quá. Em đã hỏi và bà ấy nói không bịnh thì bà ấy không chết
đâu. Thứ hai em sẽ giải quyết những khó khăn cho bà ấy. Lúc nào em cũng hết
lòng giúp đỡ mọi người, anh rất phục đức tính đó. Nhưng anh phải nhắc lại, hãy
tập “ích kỷ cho người khác”. Nếu em làm việc quá sức, ngã bịnh thì ai giúp
những người như bà ấy.
Thùy cười:
– Anh đừng lo cho em. Em quá bận rộn đâu có thì giờ nào để bịnh.
Nhưng rồi ăn tô mì vẫn thấy mất ngon vì tâm trí còn văng vẳng tiếng khóc của
người đàn bà và biết rằng trên đời có nhiều cái chết không do bệnh tật.
*
Sáng thứ Hai, Thùy vào sở sớm, dặn cô phụ tá Liên:
– Hôm nay đầu tuần, chắc mình sẽ rất bận rộn. Nếu có bà nào tên Mỹ Lệ đến, em
cho vào gặp chị ngay. Sau đó em nghe điện thoại giùm chị, ghi lại những lời
nhắn. Chị sẽ giải quyết sau…
Mỹ Lệ đến, khoảng dưới 30, không son phấn, ăn mặc giản dị, xuềnh xoàng, như một
người đã quên săn sóc bề ngoài. Hai mắt sưng vù vì khóc nhiều. Khuôn mặt thanh
tú, xanh xao, da trắng tự nhiên, dáng dấp khoan thai, từ tốn, rõ ràng là phong
cách của một người không quen nắng gió.
Thùy đưa Mỹ Lệ vào văn phòng. Cô rụt rè:
– Thưa bà, trước khi gặp, em tưởng bà lớn tuổi lắm, ai ngờ bà còn quá trẻ. Vậy
xin cho em được gọi bằng cô.
– Mỹ Lệ cứ gọi là chị, xưng em, như thế thân mật hơn.
– Em cám ơn chị. Chị ơi, em muốn chết. Sống nhục lắm…
Mỹ Lệ òa khóc. Tức tưởi, nghẹn ngào hơn cả buổi chiều hôm thứ sáu, trên điện
thoại. Rõ ràng là cô muốn chống cự với cơn khóc ào đến, để nói tiếp, nhưng nó
cuốn cô đi như giông bão. Thùy liên tiếp đưa giấy lau nước mắt cho cô:
– Em cứ khóc đi, cho vơi đau khổ, rồi từ từ kể hoàn cảnh cho chị nghe xem chị
có giúp gì được không.
Khi ngừng khóc, sắp nói, Mỹ Lệ chợt nhìn quanh. Thùy hiểu ý:
– Em đừng lo. Văn phòng này chỉ có chị em mình. Những điều em sắp nói chỉ mình
chị nghe và chị có bổn phận phải giữ kín.
Mỹ Lệ bắt đầu kể. Đây là chuyện bi thương của đời cô:
“Nghiêm và Mỹ Lệ quen và yêu nhau từ lúc còn học trung học. Lên đại học, Nghiêm
vào Đại Học Sư Phạm, thành giáo sư toán. Mỹ Lệ tốt nghiệp Quốc gia sư phạm,
thành cô giáo trường tiểu học. Làm đám cưới ngay sau khi Nghiêm ra trường. Sau
đó có hai con, một trai một gái. Đời sống êm đềm, hạnh phúc.
Là giáo sư, Nghiêm không bị động viên, chỉ phải đi học quân sự 9 tuần ở Quang
Trung rồi được “biệt phái” về dậy học ở trường cũ.
Cuối tháng tư 75, Cộng quân chiếm miền Nam, coi giáo sư biệt phái là thành phần
khả nghi, có tội như các sĩ quan hiện dịch. Nghiêm bị giam trong trại cải tạo
hơn ba năm.
Được thả về, Nghiêm tìm đường vượt biển. Chủ tàu trước có con là học trò Nghiêm
nên dành cho một giá đặc biệt. Mỹ Lệ dành dụm được một ít tiền vừa đủ mua chỗ
cho cả nhà.
Hơn 50 người chen chúc trên một chiếc tàu nhỏ, ra khơi vào một đêm không trăng.
Hai ngày đầu biển êm. Chiều ngày thứ ba, một chiếc tàu lớn xuất hiện, phăng
phăng chạy thẳng đến. Có người la lên:
– Hải tặc! Coi chừng tàu hải tặc Thái Lan.
Ông chủ tàu, cũng là tài công, mở hết tốc lực chạy trốn, nhưng không thoát. Rất
nhanh, tàu lớn kè sát tàu nhỏ, hơn mười tên hải tặc nhảy sang. Tất cả đều có
dao, hai tên có súng. Đàn ông bị trói tay dồn xuống ngồi ở một góc cuối tàu.
Trước hết, chúng lục soát khắp tàu, tìm vàng bạc, nữ trang… rồi bốn năm tên bắt
đầu sờ mó, hôn hít các bà các cô. Tiếng chúng cười giỡn lẫn tiếng kêu khóc của
nạn nhân vang một vùng biển.
Khoảng một giờ sau, chúng trở về tàu lôi Mỹ Lệ và tám phụ nữ theo. Nghiêm, lúc
đó chỉ bị trói tay như tất cả đàn ông khác, chạy theo năn nỉ. Hai con theo bố,
cũng nhảy sang tàu hải tặc. Ba cha con bị chúng hò hét, bắt ngồi ở một góc gần
cột buồm, cùng khóc.
Rồi chúng lột quần áo đám phụ nữ, bắt đầu cuộc hãm hiếp tập thể. Nghiêm vùng
dậy, chạy lại chỗ vợ. Tên hải tặc đang đè Mỹ Lệ xuống, buông cô ra, giận dữ nắm
hai bàn tay bị trói, lôi Nghiêm về phía cột buồm, định trói anh vào đó. Nghiêm
đạp vào bụng nó, với tất cả sức mạnh của một người đã chọn cái chết. Nó ngã lăn
xuống sàn tàu. Lập tức, nó chộp một con dao lớn, chém ngang cổ Nghiêm. Lúc đó,
anh đang lùi lại, đã đến sát mạn tàu. Cổ bị chém gần đứt lìa, đầu anh đổ xuống
vai, cùng lúc thân hình ngã ngửa lên thành tàu. Tên hải tặc xông tới, đẩy luôn
anh xuống biền. Hai đứa con chạy theo kêu khóc: “Ba ơi! Ba ơi!” đều bị thằng ác
quỷ ném xuống nước. Lúc bị nhấc bổng lên Thằng Nghị còn vùng vẫy chống cự, con
Thoa chỉ co dúm người, ngưng gọi “Ba ơi!” mà kêu thét lên: “Má ơi!” Mỹ Lệ vùng
chạy đến thành tàu, định nhảy xuống biển theo chồng con. Tên hải tặc túm tóc cô
kéo lại. Cô vùng vẫy, cào lên ngực nó. Nó vật ngửa cô xuống, và chồm lên người
cô.
Mỹ Lệ ngất đi. Khi tỉnh lại, thấy toàn thân lạnh cóng nhưng phần dưới thân thể,
từ lưng tới chân lại như đang ngâm trong nước âm ấm. Nhìn quanh, thấy các bà,
các cô, cũng như mình, không một mảnh vải che thân, nằm túm tụm, sát vào nhau
từng nhóm hai ba người, chắc cho đỡ lạnh. “Nhóm” của Mỹ Lệ gồm con bé Dậu, con
ông chủ tàu, 16 tuổi nhưng thân hình nhỏ bé, còm nhom như trẻ 12, 13. Dậu nằm
nghiêng, bất động, co quắp, thu mình thật nhỏ như trẻ nằm trong lòng mẹ. Lòng
mẹ của Dậu ở đây là bà vợ bác sĩ Hải.
Ông bà Hải đã lớn tuổi, đẹp đẽ, hiền lành. Cả hai đều có khuôn mặt hồng hào,
phúc hậu như những nhân vật trong tranh truyện thần tiên. Ai cũng mừng và thấy
mình may mắn được chung tàu với một vị thầy thuốc. Và Bác sĩ Hải, ngay từ ngày
thứ hai trên biển đã đi quanh tàu săn sóc cho đám đàn bà trẻ thơ và hai thanh
niên có triệu chứng bị suy nhược, say sóng. Ông bắt chủ tàu cho người này uống
thêm nước, người kia thêm phần ăn. Bà ôm hộp đồ nghề có đủ ống chích và những
món thuốc cấp cứu đi theo ông, sẵn sàng làm nhiệm vụ của một y tá. Và lúc nào
bà cũng tươi cười, như đang cùng ông săn sóc cho bệnh nhân trong cái phòng mạch
nhỏ của ông ở vùng Phú Lâm.
Bây giờ bà nằm nghiêng, con bé Dậu lọt thỏm trong lòng. Bà quàng tay trên người
nó, như che chở, như sưởi ấm. Mặt mũi bà sưng vù, có những vết cào túa máu trên
má. Hai mắt nhắm nghiền, thoi thóp thở. Và cái cảm giác làm ấm nửa thân Mỹ Lệ
là dòng máu từ cửa mình bà tuôn ra thành vũng lớn trên sàn tàu, bao quanh phần
dưới thân thể của cả hai nguời.
Chưa kịp lay gọi bà, thấy vũng máu, Mỹ Lệ lại ngất đi.
Tỉnh lại vì tiếng động và tiếng cười nói, cô thấy bốn tên hải tặc, mỗi tên cầm
một chai nước, đến gần đám nạn nhân. Có hai ba người giơ tay ra hiệu xin uống
nước. Một tên tiến về phía cô. Mỹ Lệ cũng khát lắm, nhưng nằm im. Tới gần cô,
tên này sựng lại, rồi đổi ý, chọn mục tiêu khác.
Hắn rót một chút nước lên mặt từng người. Với những người kiệt lực nằm liệt,
đang khóc hay rên rỉ yếu ớt, có chút nước trên môi cũng chỉ mở mắt ra, không cử
động, hắn bỏ qua. Khi gặp một cô còn đủ sức ngồi dậy, hắn, tay trái đỡ dưới
cằm, bóp miệng cô tròn ra như cái phễu, tay phải rót nước, nhẹ nhàng, từ tốn,
từng chút một, như sợ làm cô sặc.
Thế rồi, thình lình, như cảm thấy đã cho nạn nhân uống đủ, hành động có vẻ dịu
dàng, nâng niu ấy biến mất. Tên hải tặc đặt chai nước xuống, chồm tới, gắn chặt
miệng hắn vào đôi môi đói khát, đang tròn ra chờ nước của nạn nhân, rồi đè cô
xuống sàn tàu.
Khi bốn tên sửa soạn bỏ đi, một bà vừa làm dấu vừa van lơn: “Lậy Chúa tôi! Lạnh
quá! Cho chúng tôi mặc quần áo”. Chúng lạnh lùng quay đi.
Một lát sau, hai tên khác xuất hiện, cũng với chai nước, tiến đến chỗ Mỹ Lệ.
Chúng đến gần, cô nhận ra một đứa là thằng đã giết chồng con mình. Tự nhiên, cô
cảm thấy khỏe hơn, bình tĩnh lạ thường với quyết định: Khi nó bắt đầu hành hạ
sẽ hết sức cắn và cào cấu nó, để được bị đánh hay chém chết.
Nhưng khi đến gần cô, hai tên này cũng sựng lại, như tên lúc trước. Bây giờ cô
hiểu: chúng nhìn thấy vũng máu dưới thân thể cô và bà bác sĩ Hải.
Tên sát nhân lay vai bà Hải, bà bất động. Tên kia lúi húi vạch mắt khám xét
thân thể bé Dậu. Chúng bàn tán một hồi rồi đứa khiêng đầu, đứa khiêng chân, ném
cả hai xuống biển, bé Dậu trước, bà Hải sau.
Vì nằm sát bà, lúc chúng nhấc bà lên, cô có cảm tưởng nghe tiếng bà thở, chỉ
một tiếng thở ra, mạnh và ngắn, rồi thôi. Nhưng rõ ràng cô nghe tiếng bà kêu:
“Ông ơi!”, tiếng kêu nhẹ như một hơi gió thoảng. Vũng máu đã khô, lúc ấy như
rạn vỡ dưới lưng, bên sườn cô, khi một phần bị tách ra đi theo thân thể bà.
Xong việc ném xác, hai tên quay lại với Mỹ Lệ. Và như lúc trước, chúng sựng
lại, nhìn phần hạ thể nhớp nhúa của cô. Rồi chúng bỏ đi.
Vũng máu bà Hải chia cho một nửa đã cứu cô.
Nhớ cảnh chồng con bị giết, tai lại cứ văng vẳng mãi tiếng bà bác sĩ Hải gọi
“Ông ơi!” Mỹ Lệ khóc đến lịm người, rồi mê man với cơn ác mộng kỳ quái: đi
trong sa mạc một mình, cổ khô đắng vì khát, nhưng nắng trên sa mạc lại lạnh
cóng như băng.
Khi cảm thấy miệng một cái ca sắt có nước chạm vào môi, Mỹ Lệ tỉnh dậy, chưa
kịp mở mắt đã vội vàng uống như cố nuốt thật nhanh nguồn sinh lực mà thân thể
mình đã cạn kiệt. Lúc ấy, trời đã hừng đông.
Tỉnh hẳn, mở mắt nhìn rõ, Mỹ Lệ thấy người cho mình uống nước là một tên hải
tặc lớn tuổi, có lẽ già nhất trong đám. Hắn cởi trần, ngồi xổm cạnh cô, rót
nước từ chai vào cái ca sắt cho cô uống, không rót thẳng nước vào miệng, như
những đứa khác. Hắn từ tốn, kiên nhẫn, nhưng Mỹ Lệ vẫn không dám nhìn vào mắt
hắn, sợ gặp những tia hung bạo đã thấy, đã chịu từ lúc bị bắt lên tàu.
Gần hết ca nước thứ ba, cô uống chậm lại rồi ngưng. Tên hải tặc đặt ca nước
xuống, nhích tới, đưa bàn tay luồn dưới vai cô, kéo lên. Cô nhắm mắt, nghĩ đã
đến lúc bị hành hạ.
Nhưng hắn chỉ đỡ cô ngồi dậy, tay kia luồn dưới hai chân cô, hắn bồng Mỹ Lệ
lên, đi về phía thành tàu.
Chắc hắn sắp ném mình xuống biển!
Lúc đó không hề sợ, chỉ thấy vui: sắp gặp lại Nghiêm và thằng Nghị, con Thoa
rồi.
Đứng sát thành tàu, tên hải tặc hướng về phía một cái tàu nhỏ đang bập bềnh gần
đó, cất tiếng hú gọi, rồi cúi xuống, nói một tràng, chắc là muốn giải thích cho
cô điều gì đó. Rồi hắn đặt Mỹ Lệ vào một thùng gỗ tròn –loại thùng rượu cưa đôi
–buộc dây, thả cả thùng và người xuống biển.
Khi cái thùng đã chạm mặt nước, tên hải tặc cúi xuống vừa nói vừa ra dấu. Hình
như hắn muốn Mỹ Lệ gỡ cái móc sắt ra khỏi thùng gỗ, cho hắn thu hồi lại sợi dây
thừng. Nhưng cô nằm lịm, không cử động nổi, vì toàn thân nhức nhối, rã rời.
Nhất là cánh tay trái. Hôm trước, khi tên sát nhân giật tóc, quật cô xuống sàn,
cánh tay trái bị kẹt sau lưng, có lẽ đã bị sai khớp hay gẫy luôn, bây giờ đau
buốt, không nhúc nhích được.
Rồi thình lình tàu hải tặc rồ máy chạy, sợi dây thừng bị buông bỏ, rơi xuống,
một phần như con rắn lớn phủ lên thân thể cô, như che bớt phần nào cái hình hài
thảm thương của người đàn bà đã mất chồng con trong chớp mắt, và mất hết mọi
thứ trên đời kể cả một mảnh vải che thân.
Nằm gọn trong thùng, cô nghe tiếng máy chiếc tàu nhỏ lại gần. Rồi cả thùng và
người được vớt lên. Tàu chỉ có hai người, một ông già gầy cao, tóc bạc và một
thiếu niên cỡ 14, 15 mập mạp, đầu trọc, mặt tròn hiền hòa như một chú tiểu. Cô
đoán là hai cha con. Người cha cởi áo, quấn quanh bụng Mỹ Lệ, cậu con cũng cởi
áo cho cô mặc.
Tàu chạy khoảng nửa giờ thì tới bờ. Họ đưa cô đến một đồn cảnh sát. Buổi trưa
hôm đó, cô được vào nhà thương, chữa cánh tay bị gẫy và hồi phục cơ thể đã suy
kiệt đến mức nguy hiểm.
Trường hợp của Mỹ Lệ được phái đoàn Mỹ chú ý đặc biệt, có lẽ do vị bác sĩ săn
sóc cô ở nhà thương, nói được tiếng Anh, Pháp, nghe được câu chuyện và hoàn
cảnh của cô, thông báo cho họ. Cô được đi Mỹ rất nhanh, khi cánh tay còn bó
bột…”
Kể lại chuyện cũ, thỉnh thoảng Mỹ Lệ phải ngừng
lại để khóc. Thùy cũng khóc theo, may mà tập được cách khóc không thành tiếng,
chỉ nước mắt chan hòa. Dù rất muốn, cô Social Worker chưa tìm ra lời nào thích
hợp để an ủi người đàn bà chịu một tai họa kinh khiếp đến mức ấy.
Mỹ Lệ kể tiếp:
– Những ngày nằm trong nhà thương, em chỉ muốn chết. Em xin bác sĩ cho thuốc
ngủ, đã để dành được gần mười viên, giấu dưới nệm giường, nhưng chẳng may cô y
tá khám phá ra, tịch thu ráo trọi. Cô mách bác sĩ. Ổng đến bên giường em. Em
khóc xin bác sĩ cho lại em những viên thuốc ngủ, hoặc xin ông vì lòng nhân đạo
chích cho em một mũi chết cho rồi. Em chả có lý do gì để sống. Người ta mất một
người thân trong gia đình là đã đau khổ chết được rồi. Em thì mất hết chồng
con, bây giờ bệnh hoạn nằm đây. Em thú thực là em đang nhịn đói, nếu bác sĩ
không giúp thì em chịu chết dần vậy. Lúc đó, em gầy như que tăm, mắt thì sưng
húp, nhiều lúc nhìn không thấy đường. Chắc ông bác sĩ cũng thấy quyết tâm của
em.
Ông ngồi bên giường em thật lâu, nước mắt lưng tròng, rồi giảng giải cho em vừa
bằng tiếng Anh vừa bằng tiếng Việt với giọng lơ lớ. Ông bảo có lẽ em là người
duy nhất sống sót. Bọn hải tặc này, như nhiều bọn khác, ngày thường đánh cá,
gặp tàu của người tị nạn thì cướp của, giết người. Cướp của xong, nếu bắt đàn
bà con gái theo và tiếp tục hiếp chóc, là chúng đã dự tính sẽ thủ tiêu các nạn
nhân, để phi tang, diệt nhân chứng.
Ông đoán bọn hải tặc cướp tàu em đang vội trở về bến với của cải chúng vừa đoạt
được. Chúng cần thanh toán đám nạn nhân càng nhanh càng tốt. Vì thế, chúng bỏ
mặc chín người đàn bà đói lạnh, nằm phơi trên sàn tàu, thay nhau hãm hiếp cho
họ kiệt lực, chết đi sống lại. Như thế, lúc ném họ xuống biển, những tên còn
chút lòng nhân, thấy mình chỉ sát hại những thân người hấp hối, không còn sự
sống, đỡ ghê tay.
Riêng trường hợp của em, ông không biết tại sao tên hải tặc lớn tuổi lại tha.
Ông đoán là có phép lạ, Trời Phật cứu em, hoặc chính chồng con em bị thảm sát,
đã phù hộ che chở cho em. Ông nói thêm: nếu không tin ở những quyền lực siêu
hình thì cũng có thể giải thích rằng: Tên hải tặc lớn tuổi chứng kiến cảnh
chồng con em bị giết hết đã động lòng trắc ẩn, tha mạng cho em. Và ông khuyên
em hãy ráng sống, nếu chính quyền Thái bắt được bọn sát nhân thì làm nhân
chứng. Khi đến Mỹ, nói với mọi người về thảm trạng của thuyền nhân để người Mỹ
và thế giới chú ý, may ra sẽ cứu được những người đi sau. Ông nói thêm: ông tin
rằng chồng con em cũng muốn em sống. Nếu em chọn cái chết thì công lao cứu em
của anh Nghiêm và thằng Nghị, con Thoa hóa ra uổng phí.
Khi ông nói đến “công lao cứu em” tự nhiên em nhớ bà bác sĩ Hải. Bà đã cứu em
thoát một cuộc hành hạ, có thể dẫn tới cái chết, vì lúc đó em đã dự định chống
lại tên sát nhân. Bà đã cứu em bằng dòng huyết lệ cuối cùng bà để lại trên đời.
Em thắc mắc hoài: bà hiền từ như thế sao lại bị hải tặc đánh sưng mặt mũi, trên
má còn có vết cào. Không lẽ bà dám chống lại chúng?
Thùy suýt buột miệng: “Có thể lắm”. Nàng nhớ đến con bé còm nhom hiền lành,
nhút nhát trong biệt thự Đặng Dung một ngày xa xưa. Khi bị tấn công, quá đau
đớn, con bé ấy đã dám liều lĩnh cắn vào vai cái sức mạnh và uy thế của ngọn núi
Thái Sơn đang đè lên mình nó. Rồi bị đánh điếc luôn một bên tai…
Tưởng tượng cảnh bà Hải nằm lúc lâm chung, theo lời Mỹ Lệ kể: Bà nằm nghiêng,
tay choàng qua người bé Dậu, như vẫn cố gắng che chở cho nó, Thùy suy đoán: có
thể bà Hải tự vệ, cũng có thể bà chống cự bọn hải tặc để bảo vệ bé Dậu. Chỉ
cần, trong lúc quá đau đớn, con bé cất tiếng gọi bà, hoặc vừa khóc vừa kêu mẹ
nó: “Má ơi!” Tiếng kêu ấy có thể làm bà Hải, và hầu hết các bà mẹ trên đời, sẵn
sàng liều lĩnh xông vào chốn hiểm nguy. Như tiếng kêu sớn sác của lũ chim con
khiến chim mẹ nhỏ bé liều chết lao đầu xuống đánh đuổi con mèo khổng lồ.
– Lời khuyên của ông bác sĩ - Mỹ Lệ kể tiếp - khiến em thấy mình mang những món
nợ với người cùng tàu bị sát hại, với bà Hải, với đồng bào vượt biển sau này.
Với chồng con, em cũng có những bổn phận, trách nhiệm. Chỉ tiếp tục sống may ra
mới trả được nợ, chu toàn bổn phận với mọi người. Em cám ơn ông bác sĩ, hứa từ
nay sẽ bỏ ý định quyên sinh.
Nói thì nghe dễ nhưng khó lắm chị ơi! Mình không tính chết nữa, nhưng những lý
do làm mình muốn chết thì vẫn còn chình ình ra đó, có bớt đi cái nào đâu. Em kể
chị nghe chưa? Hôm đó trước khi gặp tàu hải tặc mọi người đang ăn sáng. Em dè
sẻn chỉ cho mỗi đứa nhỏ ăn nửa gói mì. Thằng Nghị mới chín tuổi đã biết khôn,
cho nhiêu ăn nhiêu. Con Thoa mới sáu tuổi rưỡi, chìa bát đòi ăn thêm, không
được thì mếu máo, em phải nạt nó. Lúc nó bị thằng ác quỷ ném xuống biển, tự
nhiên lại nhớ ra: con Thoa còn đang đói! Chỉ có chết may ra mới hết ân hận, hết
thương con đứt ruột đứt gan chị ơi!
Nhưng có lý do để sống rồi, em như người vừa ốm dậy, ngủ nhiều, ăn nhiều, khóc
ít. Nhớ lại những chuyện xảy ra không còn để dìm sâu mình vào một cơn buồn khổ
mới mà để tính toán, suy nghĩ cân nhắc. Em hồi tưởng để tập dợt, sửa soạn lời
khai trước tòa án Thái và câu chuyện kể cho các nhà báo Mỹ.
Cuối cùng thì cho tới ngày đi định cư chả có tòa án nào gọi. Và đón em ở phi
trường San Diego chỉ có một người đại diện nhà thờ bảo trợ và một cô thông dịch
viên, không có ông bà nhà báo nào. Em hơi thất vọng, nhưng cũng nhận được tin
vui. Cô thông dịch viên cho biết San Diego đã có một ngôi chùa. Thế là yên tâm
từ nay có chỗ gửi chồng con.
Cuối tuần đầu tiên em đã đến chùa xin lễ cầu siêu. Rồi dùng một cái bàn nhỏ bày
bàn thờ cúng thêm ở nhà. Khi nhớ ra bàn thờ cần mấy tấm hình, mà hình ảnh cũng như
thân xác Nghiêm và các con đã mất tiêu hết rồi, lại ngồi khóc mất một lúc.
Dù sao từ ngày đến San Diego em cảm thấy đỡ khổ rất nhiều, ý tưởng quyên sinh
không còn lởn vởn, ám ảnh mỗi ngày như trước.
Thùy nhìn Mỹ Lệ, ngạc nhiên, thắc mắc: vậy sao từ chiều thứ sáu tới giờ lại
than chỉ muốn chết? Chưa kịp hỏi thì Mỹ Lệ lại òa khóc:
– Vậy mà rồi em cũng chẳng được yên thân. Em bị tắt kinh và sáng thứ sáu khám
bác sĩ bảo em đang mang thai.
Thùy choáng người. Đúng là bàng hoàng như sét nổ bên tai.
– Nghe người ta nói ở San Diego bà Thái Thùy hết lòng giúp đỡ đồng hương,
chuyện khó khăn cỡ nào bả cũng giải quyết được, em tìm xin số điện thoại của
chị, bữa hổm thứ sáu, mãi tới chiều mới kiếm ra, em vội gọi cho chị thì đúng
giờ tan sở. Bây giờ em phải làm sao, xin chị suy nghĩ giùm em?
“Khó khăn cỡ nào cũng giải quyết được!” Nhưng chưa gặp khó khăn nào “khó” như
thế này.
Thùy nhờ Liên dẫn Mỹ Lệ vào phòng vệ sinh rửa mặt rồi qua phòng khách lấy nước
và bánh trái cô đồng nghiệp Linda đem vào sáng nay.
Còn lại một mình, Thùy bắt đầu cầu nguyện. Nhà theo đạo Phật, nhưng đi học
trường bà Sơ là đạo gì cũng phải đọc kinh và có tên Thánh đàng hoàng. Quen đi,
mỗi lần gặp khó khăn lại cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Hôm nay thì cầu cả Đức Mẹ và
Phật Bà Quan Âm. Phải xin những đấng thiêng liêng trợ giúp. Sáng suốt chưa đủ,
cần linh cảm được chuyện xảy ra trong tương lai. Nếu không tiên đoán được hậu
quả, đưa ra lời khuyên sai lầm, là làm người đàn bà khốn khổ này chịu đau đớn,
dằn vặt suốt đời. Với Jason, Thùy chỉ đi tìm cho nó tấm mền an toàn. Với Mỹ Lệ,
nàng chính là tấm mền ấy.
Cuối cùng, quyết định chỉ cho Mỹ Lệ biết những giải pháp, mà không giúp cô chọn
lựa, hoặc đưa ra một lời khuyên nào, vì tự thấy mình không đủ thẩm quyền:
– Có ba giải pháp. Thứ nhất: không muốn giữ cái thai. Chị sẽ đưa em đến nhà
thương để họ giúp. Thứ hai: Không hủy bỏ cái thai. Em giữ thai nhi cho đến khi
sanh nở. Đứa bé sẽ được giao cho một cơ quan, nơi này sẽ tìm cha mẹ nuôi cho
nó. Em sẽ không bao giờ thấy nó nữa…
– Mất nó luôn hả chị?
– Mất luôn. Và nó cũng không bao giờ biết mẹ là ai.
– Thế còn giải pháp thứ ba?
– Thứ ba là: Em sanh và giữ nó lại để nuôi. Chị sẽ đưa em đi khám bác sĩ đều
đặn. Sanh nó rồi thì cả em và nó sẽ được chính phủ săn sóc chu đáo cho đến lúc
nó đủ mười tám tuổi. Giải pháp này có một khó khăn trở ngại lớn, chị không nói
em cũng biết rồi, nó sẽ làm em nhớ lại là chính cha nó tàn sát chồng con em. Nó
là sự nhắc nhở thường trực bên mình. Em phải có đủ ý chí để chịu hậu quả nếu
chọn giải pháp này. Nếu mai đây tâm trí em có lúc yếu đuối, khủng hoảng, cả nó
và em sẽ không được an toàn. Em sẽ vô tình đẩy cả hai vào những tình huống nguy
hiểm khó lường.
Em sẽ phải tự mình chọn một trong ba giải pháp ấy. Chị không giúp em được vì
chị không trải qua một tai họa khủng khiếp như em, cũng không biết những giờ
phút kinh hoàng ấy ảnh hưởng, tác động lên tâm trí một người đàn bà như thế
nào. Em cũng đừng hỏi các linh mục, các thượng tọa. Họ sẽ khuyên bảo theo kinh
kệ, sách vở, không ích gì đâu. Hậu quả của chọn lựa, một mình em sẽ gánh chịu.
Bây giờ em về suy nghĩ thêm hai tuần nữa rồi cho chị biết. Chị có thể bảo đảm
một điều là bất cứ em chọn giải pháp nào, chị cũng sẽ luôn luôn hỗ trợ, giúp đỡ
em với tất cả khả năng của chị.
Mỹ Lệ về, tươi tỉnh hơn lúc đến. Thứ Hai tuần sau, sáng sớm, cô gọi điện thoại
báo tin: “Em đã chọn rồi.” Thùy cứng rắn:
– Đừng vội. Chị đã dặn hai tuần. Em còn một tuần nữa để nghĩ thêm.
Chọn như chọn sổ số, suy nghĩ thêm một tuần hay cả đời chưa chắc đã được con số
trúng. Nhưng ít nhất, mai đây khỏi dằn vặt mình đã chọn lựa vội vàng.
Cuối cùng, Mỹ Lệ chọn giải pháp thứ ba:
– Thưa chị, em sẽ sanh và nhất định nuôi nó. Dù sao nó cũng là máu thịt của em
và ở xứ này bây giờ em chẳng còn ai là thân thích, ruột thịt, có nó cũng đỡ cô
đơn.
Hôm Mỹ Lệ sanh, Thùy là người thân duy nhất ngồi chờ ở phòng đợi. Được y tá dẫn
vào phòng đặc biệt của trẻ sơ sinh để nhìn em bé, Thùy thấy da nó ngăm ngăm
đen, tóc hơi xoăn. Định cố mường tượng ra khuôn mặt của cha nó, nhưng rồi gạt
bỏ ngay, nghĩ rằng như thế là bất công, tàn nhẫn với nó. Là bào thai, nó là
chứng tích, kết quả của tội ác. Chào đời rồi, nó là sự bắt đầu của một con
người riêng biệt mới tinh khôi. Và em bé nào cũng vô tội, cũng vô cùng dễ
thương.
Mỹ Lệ đặt tên nó là Daniel Trịnh – Trịnh là họ của Nghiêm. Thùy nhận là Mẹ Đỡ
Đầu, quyết tâm phụ lực với cô nuôi dưỡng, dậy dỗ nó. Đã là tấm mền an toàn của
bà mẹ, sẽ tiếp tục là tấm mền bảo bọc tạo êm ấm, an toàn cho đứa con.
*
“Mỹ Lệ thương,
Tha lỗi cho chị đã đem chuyện bi thương của em ra kể. Hơn ba mươi năm qua
rồi. Trong ba thập niên ấy, em và thằng Dan cũng là một phần đời của chị, kể
lại chuyện đời mình, không thể bỏ qua. Vả lại nó cũng không còn là chuyện đời
riêng nữa mà thuộc về những trang sử đen tối nhất của dân tộc, viết bằng máu và
nước mắt con dân nước Việt trên Biển Đông.
Thằng Dan đã trở thành một luật sư thành công làm mẹ ruột và “mẹ Thùy” của
nó hãnh diện. Chị thì vừa hãnh diện vì nó, vừa hãnh diện vì em.
Chị phải kể lại để nói lớn với mọi người rằng nước Việt mình có những phụ nữ
phi thường. Và chị đã được gặp một người đàn bà như thế. Mong manh, yếu đuối,
bị xô xuống vực thẳm, đã cận kề cái chết, nhưng vẫn có đủ ý chí, can đảm vươn
lên từ cõi tuyệt vọng.
Rồi với nghị lực và lòng nhân ái bao la, sẵn sàng đương đầu, chịu đựng những
dằn vặt, ám ảnh, những hồi ức xé lòng, để cưu mang, nuôi dưỡng chính một sự
nhắc nhở thường xuyên về những giờ khắc kinh hoàng, đau đớn nhất đời mình…”
Tháng Chín, 2016
Lê Tất Điều