Chị gọi điện cho tôi và đặt tôi viết bài.
Tôi hỏi :
- Viết về cái gì ?
- Guốc mộc - Chị trả lời.
Tôi lặng người đi trong khoảnh khắc. Hình như đây là một
trong vài lần ít ỏi trong cuộc đời làm báo của mình, tôi đã sống trong một khoảnh
khắc lạ kỳ khi nghe lời đặt bài của một biên tập viên. Bạn sẽ băn khoăn không
hiểu vì sao tôi nói vậy. Điều đó chẳng có gì ngạc nhiên. Bởi việc đặt bài này
vô tình đã chạm vào một thế giới của riêng tôi. Và thế giới ấy liên quan đến những
đôi guốc mộc. Đó chính là thế giới của những người thân yêu đã khuất của tôi.
Bây giờ, giữa thời đại của những giày, dép gắn liền với những
thương hiệu lớn trên toàn cầu, tôi hầu như không còn được thấy những đôi guốc mộc.
Chính tôi cũng đã quên đi hình ảnh những người đi guốc mộc và tiếng guốc mộc
vang lên đặc biệt trong những đêm thanh vắng ở làng quê. Và thế là, lời đặt bài
đã vô tình làm bật tung cánh cửa của một căn phòng ký ức trong tôi đã kép chặt
từ lâu. Trong khoảnh khắc nhanh như một cái chớp mắt, tiếng guộc mộc bỗng vang
lên dồn dập và cuối cùng dâng cao như một con sóng khổng lồ dội vào bờ đá. Tất
cả những người thân yêu đã khuất của gia đình tôi hiện về.
Đó là ông bà nội tôi, cha mẹ tôi, cô Dự của tôi, một bà mẹ
Việt Nam anh hùng, cô Mỡ tôi, người cô mất năm 16 tuổi với bệnh viêm phổi vì cảm
lạnh trước khi lấy chồng mấy tháng và biết bao người thân yêu khác đã trở thành
thiên cổ. Thời đó, tất cả những người thân yêu ấy đều đi guốc mộc. Những năm
tháng đói ngèo ấy, những người thôn quê chẳng có lựa chọn nào khác cho thời
trang của mình. Có người mấy năm liền không hề dám may một chiếc áo hay quần mới.
Quần áo rách đến đâu thì vá đến đấy. Bây giờ, tôi vẫn nhớ chiếc áo của bà tôi
dày đặc những miếng và nặng trĩu khi ngấm nước. Và các loại giày dép thì hòan
toàn không có. Vào những năm 70 hay 80 của thế kỷ trước, một đôi dép nhựa Tiền
Phong là một giấc mơ lớn của thanh niên miền Bắc không chỉ ở nông thôn mà cả ở
thành thị. Bởi thế, guốc là thời trang phổ biến nhất của mọi người.
Bà nội tôi có một đôi guốc mộc đẽo bằng gỗ xoan do ông nội
tôi làm cho bà vì ông nội tôi là thợ mộc. Nhưng bà nội chỉ dùng đôi guốc đó vào
những ngày trọng đại còn hầu như cả đời bà tôi đi chân đất. Còn mẹ tôi thì dùng
guốc quanh năm. Mẹ tôi là một bà giáo làng. Mẹ tôi không thể đi chân đất đến lớp.
Trong những đêm mẹ tôi có việc về muộn, anh em tôi vừa ngủ lơ mơ bên bà nội vừa
đợi mẹ về. Chỉ khi tiếng guốc mẹ tôi vang lên dọc lối ngõ chúng tôi mới yên tâm
chìm vào giấc ngủ.
Chúng tôi có khả năng phân biệt tiếng guốc của từng người
trong gia đình họ hàng. Có tiếng khoan, có tiếng nhặt, có tiếng nhẹ, có tiếng nặng,
có tiếng guốc của người đang tức giận, có tiếng guốc của người đang say rượu,
có tiếng guốc của những người già, có tiếng guốc của các cô thôn nữ đi họp đội
sản xuất về muộn cùng với ánh sáng những ngọn đèn chai chập chờn.
Khi tôi ra đời ông nội tôi đã mất. Mẹ tôi thường kể vào những
đêm mùa hạ oi bức, ông nội tôi thường nằm trên hiên nhà hóng gió. Những lúc như
thế, ông nội tôi dùng đôi guốc mộc để gối đầu. Trước kia ở làng quê, những người
đàn ông chẳng bao giờ dùng gối nhồi râu ngô hay bông gạo như những người đàn bà
trong làng thường làm mà chỉ dùng gối bằng một khúc tre đẽo nhẵn bóng. Thời đó,
đường ngõ đều đắp bằng đất cứ có mưa là lầy lội. Những người đi guốc đến đoạn lầy
lội thì tháo guốc ra cầm tay mà đi qua. Hết đoạn đường lầy lội họ ghé xuống ao
rửa chân và lại xỏ guốc vào. Chính thế mà thời đó, ngoài đời sống khó khăn thì
dùng guốc mộc là thuận tiện hơn cả.
Tôi chẳng thể nào quên được câu chuyện về cô Mỡ của tôi cho
dù khi tôi ra đời cô tôi đã mất. Năm cô tôi 16 tuổi, một chiều cô tôi ra sông
Đáy chảy qua làng bắt hến để nấu cháo. Những năm tháng đói mê man, sông Đáy đã
cứu sống người làng tôi. Không có con sông nào ở xứ sở này lại nhiều hến như
sông Đáy. Sông Đáy không chỉ có hến mà còn có trai sông, có con mẹ ghẻ, con
chìa vôi, con trùng trục...Người làng tôi bắt hến và các loại nhuyễn thể hai mảnh
khác nấu cháo. Gọi là cháo nhưng chỉ có một dúm gạo có thể đếm được bao nhiêu hạt
mà chủ yếu nấu với su hào, khoai lang hoặc củ chuối. Trong cái chiều mưa rét ấy,
cô tôi đã dầm nước sông bắt hến và nhiễm lạnh bị viêm phổ rồi mất trước ngày cưới
chỉ mấy tháng. Sau này, bà tôi vẫn thường mơ thấy cô hiện về đứng bên bậc cửa
và nói với bà tôi : " Khi nào con cưới, u bán thúng thóc mua cho con chiếc
áo và đôi guốc u nhé". Nhưng cô tôi không bao giờ đến được ngày cưới của
mình và bà tôi đau buồn mãi đến khi mất. Sau này cứ đến ngày giỗ cô, bà tôi lại
cố mua một chiếc áo và một đôi guốc vàng mã gửi cho cô. Và khi bà nội tôi
mất, một người em họ bà tôi đã đẽo vội trong đêm một đôi guốc để vào áo quan
khi khâm niệm bà tôi.
Tôi không biết những nơi khác người ta đẽo guốc bằng gỗ gì
còn quê tôi người ta đẽo guốc bằng gỗ xoan đào. Gỗ xoan mềm đễ đẽo và nhẹ dễ
đi. Ngày ấy, làng nào cũng trồng rất nhiều xoan. Vào cuối tháng Hai âm lịch,
hoa xoan nở tím làng quê. Ông bác còn nói với tôi người ta đẽo guốc bằng gỗ
xoan còn vì một lý do là tiếng guốc nghe rất giòn và trong không như các loại gỗ
khác. Nhưng rồi sau này chỉ những người đàn ông và những người già mới tự đẽo
guốc để đi chứ các thôn nữ không thích đi guốc đẽo bằng gỗ xoan nữa. Vào phiên
chợ quê, họ líu ríu rủ nhau đi chợ mua những đôi guốc có sơn màu và vẽ trang
trí.
Tôi đã từng theo chị gái tôi đi chợ mua guốc. Chị tôi cứ thử
đi thử lại các đôi guốc đến mất cả buổi. Mua được guốc xong thì phải chọn quai
guốc. Quai guốc cho phụ nữ càng ngày càng phong phú với nhiều thể loại : quai
nhựa, quai cao su, quai da, quai lụa...Chọn quai guốc xong thì chọn đinh guốc.
Người ta bán guốc, bán quai, bán đinh để về nhà các cô thôn nữ đo quai guốc cho
vừa chân mình rồi mới dùng đinh để đóng quai vào guốc. Mua đinh rồi thì mua miếng
đệm để trên phần quai đóng vào guốc tránh đinh làm rách quai guốc khi sử dụng.
Sau cùng là mua đế guốc. Đó là những miếng đệm bằng cao su để guốc không mòn
nhanh. Chuyện đóng miếng đệm vào đế guốc là "du nhập" từ thành thị. Hồi
đó, nữ công chức đi guốc rất nhiều. Có lẽ không chỉ vì sợ guốc mòn mà là để giảm
bớt tiếng guốc thơ mộng một lúc nào đó nhưng cũng gây ra tiếng ồn không kém khó
chịu nơi công sở.
Nói về quai guốc thì nó có cả một lịch sử. Chặt một
cây xoan đào xuống thì đẽo được hàng chục đôi guốc. Nhưng quai guốc thì không
phải là dễ kiếm. Một đôi guốc đến lúc không dùng được cũng phải thay biết mấy lần
quai. Chẳng thế mà mỗi khi giúp mẹ mang guốc đến ông bác nhờ thay quai thì ông
bác tôi lúc nào cũng nói: " Guốc bảy đời quai, trai hai đời vợ". Câu ấy
có ý rằng một người đàn ông thường cũng chỉ lấy đến hai đời vợ còn một đôi guốc
phải đến bảy lần thay quai. Chính thế mà bất cứ thứ gì có thể làm được quai guốc
là người ta cất kỹ để dùng. Hồi nhỏ ở quê, tôi nhớ cha tôi đã mang về một chiếc
cặp da rách của một ông lãnh đạo tỉnh vứt đi. Cha tôi đã cắt chiếc cặp da đó
thành từng miếng để làm quai guốc. Tôi ngồi xem ông cắt chiếc cặp da cũ rách cẩn
trọng như cắt một miếng vàng lá. Sau đó, ông biếu những miếng da cho mấy người
anh em trong họ để làm quai guốc. Tất nhiên ngày ấy, cặp da là da thật chứ
không phải giả da như bây giờ. Thi thoảng, cha tôi lại mang về một chiếc vỏ xe
đạp đã mòn nhẵn mà ai đó bỏ đi. Cha tôi hì hục cả buổi trưa cắt thành những đôi
quai guốc. Quai guốc bằng vỏ xe đạp hơi cứng nhưng bền vô cùng. Những năm tháng
mà tôi gọi là thời đại đi guốc thì mọi thứ đều quí hiếm. Bởi thế món quà "quai
guốc" của cha tôi thực sự là một món quà quí đối với những người thôn quê
ngèo khó và hầu như cả đời chỉ quanh quẩn trong làng.
Hồi nhỏ, tôi đã được một người trong họ dạy cách đẽo guốc mộc.
Ông dạy tôi đẽo guốc làm sao để đi thấy mềm gót nhất. Nếu không biết đẽo guốc,
người đi sẽ có cảm giác lao về phía trước hoặc thấy mỏi gót chân hoặc tức ở
lòng bàn chân. Đẽo guốc xong, chúng tôi lấy mảnh chai vỡ cạo cho đôi guốc mộc
nhẵn bóng. Có những đôi guốc được dùng cả chục năm đến nỗi gót guốc mòn vẹt mỏng
như một tờ giấy. Làng tôi trước kia có một người làm guốc mộc nổi tiếng trong
vùng. Ông làm guốc để bán. Ông xâu những đôi guốc vào dây thừng và gánh đi bán.
Ông cứ gánh hai xâu guốc đi hết làng này làng khác bao giờ bán hết guốc thì lại
mua khoai, sắn, ngô và trở về nhà. Bây giờ làng tôi vẫn còn một hai người già
đi guốc mộc. Con cháu mua giày, mua dép cho họ nhưng họ không đi. Họ chỉ xỏ
chân vào những đôi giày da, dép da một lần vì chiều con cháu. Sau đó họ cất đi
cho đến khi chết. Họ đã đi guốc gần hết cuộc đời rồi. Họ chẳng thể nào thay đổi
được thói quen của họ. Làng quê bây giờ vẫn còn những người đàn bà đi guốc
nhưng không phải guốc mộc. Đó là những đôi guốc được cải tiến.
Ở thành thị bây giờ cũng vẫn còn những người đàn bà đi guốc.
Không hiểu sao mà lúc nào tôi cũng thấy gót chân của những người đàn bà đi guốc
thật đẹp. Và cái dáng đi của những người đàn bà hay cuả những cô gái đi guốc
lúc nào cũng duyên dáng và gợi cảm lạ lùng. Đó không chỉ bởi ký ức của tôi về
những người thân yêu thuộc về thời đại của thời trang guốc mà bởi đặc tính của
những đôi guốc đã làm cho dáng đi của những người đàn bà như vậy.
Với một lý do vô tình từ lời đặt bài mà tôi được trở về sống
những năm tháng xa xưa. Hay nói chính xác hơn là được sống với những người thân
yêu đã mất trong gia đình tôi, trong làng quê tôi. Có thể chẳng ai có ý định bỏ
một ngày hay một tuần để nghiên cứu về những đôi guốc mộc. Nhưng sự thật, chính
những đôi guốc mộc đã đã nói với chúng ta một điều: Có những vật dụng trong đời
sống con người không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội nhưng nó lại có một
sứ mệnh giữ cho sợi dây vô hình nối chúng ta với những gì thân thuộc và thiêng
liêng không bao giờ đứt. Và những đôi guốc mộc chính là một trong những hiện vật
kỳ lạ trong bảo tàng đời sống rộng lớn này.
Nguyễn
Quang Thiều