Còn đang bỡ ngỡ trước khoảng sân có nhiều chậu hoa sứ
Thái-Lan, nhiều cây lựu và cây bông điệp, Bảo-Trân thấy một cụ bà từ bên gốc ổi
đang chầm chậm bước về hướng bậc cấp. Đôi tay cụ run run, quơ nhè nhẹ trong không
gian như muốn tránh bất cứ vật thể nào bất ngờ xuất hiện trên lối đi quen thuộc
của cụ. Bảo-Trân vội lên tiếng:
- Cụ ơi, cụ! Cụ có phải là cô Năm không, cụ?
Cụ bà dừng lại, hơi nghễnh một bên tai về hướng Bảo-Trân: “Hả?” Bảo-Trân bước nhanh đến, lập lại
câu hỏi. Cụ bà lại ngẫng một bên tai lên, chưa kịp hỏi thêm một tiếng “Hả?” nữa thì một người đàn bà từ trong
nhà vừa bước nhanh ra vừa đáp:
- Vâng, cô Năm đó; mà cô là ai vậy?
Lúc này không hiểu nhờ câu xác định của người đàn bà hay
không nhưng Bảo-Trân chợt nhận ra khuôn mặt của cụ bà giống hệt khuôn mặt của
bà Nội mà ngày trước Bảo-Trân thường thấy trong tấm ảnh trên bàn thờ nơi nhà từ
đường. Có khác chăng là trong ảnh bà Nội búi tóc, mặc áo dài gấm, mang hài.
Trên cườm tay Nội đầy xuyến vàng. Trên cổ Nội đeo nhiều xâu chuỗi mà mỗi xâu được
kết lại bằng từng hạt vàng ròng, hình tròn, nhỏ hơn hạt bắp một tí. Còn cô Năm
bây giờ mặc bộ quần áo vải nâu, tóc cạo nhẵn và quanh cổ cũng như cườm tay chỉ
có da đùn từng vòng.
Thấy Bảo-Trân cứ chăm chăm nhìn bà Năm chứ chưa trả lời câu
hỏi của mình, người đàn bà lại hỏi:
- Cô từ đâu tới? Sao cô biết Má tôi thứ năm?
Bảo-Trân hơi giật mình sau khi người đàn bà xác định sự liên
hệ giữa bà và cô Năm. Nhìn người đàn bà một thoáng, Bảo-Trân nhận ra ngay:
- Chị là chị Thoa, phải không? Em là Bảo-Trân, con cậu Dư nè.
Thoa thảng thốt:
- Trời đất! Em Bảo-Trân
đó hả?
Bảo-Trân xúc động,
chớp mắt nhiều lần, đầu gật gật, vừa tính bước đến ôm choàng lấy Thoa, như thói
quen biểu lộ tình cảm của người Tây-Phương và của những người sống lâu bên Âu-Mỹ ;
nhưng Thoa xoay sang bà Năm, nói thật lớn vào tai bà:
- Con Bảo-Trân,
con của cậu Dư.
Bà Năm nhìn Bảo-Trân
một giây rồi nước mắt tuôn dài, bờ môi run run. Bà Năm vừa lựng chựng bước về
phía Bảo-Trân vừa thốt lên, bằng giọng khàn khàn, một tiếng duy nhất: “Mày!” Bảo-Trân đón nhận đôi tay khẳng
khiu của bà Năm rồi ôm chầm lấy vai Bà, tựa một bên má lên đầu Bà. Bảo-Trân cảm
nhận được những chân tóc mới nhú của bà Năm đang tạo cảm giác không êm ái chút
nào cả trên làn da không còn tươi thắm của nàng. Cảm giác này bỗng trở thành
xót xa khi Bảo-Trân nhớ ngày xưa bà Năm là một trong những người cô có vóc dáng
cao sang, đài các; vậy mà bây giờ cô “co” lại, thấp đến độ Bảo-Trân có thể tựa
đầu lên tóc cô.
Sự khác biệt về
chiều cao giữa hai cô cháu khiến Bảo-Trân nhớ đến ý tưởng ngồ ngộ của nàng cách
nay hơn bốn mươi năm, lúc bà Năm đến đón gia đình nàng, vừa hồi cư từ ‘vùng giải
phóng’, tại trại tiếp cư ở Xóm-Mới.
Lúc đó, mỗi khi
trả lời cô Năm, bé Bảo-Trân cứ thầm ước được chóng lớn để khỏi phải ngẫng mặt
nhìn người đối diện mỗi khi thưa chuyện. Lý do Bảo-Trân phải ngẫng mặt nhìn người
đối thoại là vì ông Dư dạy nàng khi nói với người nào phải nhìn thẳng người đó
để quan sát và xét đoán; đồng thời cũng để người đó cảm nhận được sự ngay thẳng,
lương thiện được bộc lộ trên khuôn mặt và ánh mắt của mình.
Bảo-Trân nhớ rất
rõ, lần đó, vừa thấy lại Bảo-Trân sau nhiều năm xa cách, cô Năm thốt lên một tiếng
“Mày!” rồi ôm chầm lấy Bảo-Trân, siết
nhẹ. Bây giờ, hơn bốn mươi năm sau, cũng chỉ một tiếng “Mày” để tỏ lòng thương yêu của cô đối với đứa cháu gái mà cô thường
bảo “giống cha nó như đúc.”
Sau khi được dìu
vào nhà và niềm xúc động lắng xuống, bà Năm hỏi:
- Ba Má mày bên
đó khỏe không?
- Dạ, cảm ơn Cô,
Ba Má con cũng thường.
- Hồi đó tao có
hay tin Ba Má mày được đi Mỹ. Nhưng trước khi đi Ba Má mày không có từ giã tao.
Bảo-Trân hiểu lý
do nào ông bà Dư không giã biệt bà Năm, nhưng nàng chẳng biết nói sao, chỉ “dạ”
thôi. Bà Năm tiếp, cũng với giọng khàn khàn:
- Bây giờ chỉ còn
có ba chị em; Bác mày nay đau mai bệnh; Ba mày ở tuốt bên Mỹ, không biết kiếp
này chị em có còn gặp nhau được nữa hay không!
Thoa và Bảo-Trân
nhìn nhau, không thể trả lời câu tự thán của bà Năm. Bảo-Trân chợt tìm được lý
do tốt để chuyển đề tài:
- Thưa Cô, cho con thắp nhang nơi bàn thờ.
Bà Năm đứng lên, vừa lựng chựng bước vào trong vừa bảo “Khoan!” Bây giờ Thoa mới nắm tay Bảo-Trân:
- Hơn ba mươi năm rồi mà em còn nhớ cô Năm và ghé thăm, tội
nghiệp em.
Bảo-Trân lặng thinh, nhìn ra sân, ánh mắt dừng lại nơi mấy
đóa hoa lựu đỏ tươi dưới ánh nắng dìu dịu của một sáng chớm Đông. Màu đỏ của
hoa lựu khiến Bảo-Trân nghĩ đến màu đỏ của hoa phượng. Ngày xưa, trước khi vào
Hạ, Bảo-Trân thích kẹp cuốn Lưu Bút Ngày Xanh của bạn rồi leo lên chỗ chán ba của
cây phượng trước nhà cô Năm, ngồi suy tư, tìm nguồn ý để viết những câu văn thật
bóng bẩy, thật sáo. Nhiều lúc Bảo-Trân đang viết thảo trên tờ giấy nháp, Thoa
chạy ra, rủ Bảo-Trân chơi “đá gà”. Vậy là Bảo-Trân xếp Lưu-Bút lại, cùng với
Thoa lần ra những nhánh nhỏ, hái hoa búp, rồi tuột xuống đất.
Hai chị em lột vỏ hoa búp, gỡ đài hoa ra. Khi gỡ đến đài hoa
lớn nhất, và đặc biệt chỉ có một đài hoa lớn này mới có những đóm trắng điểm
trên màu đỏ thẫm, Bảo-Trân thích nhai đài hoa này để cảm nhận vị chát chát,
chua chua. Sau đó hai chị em lấy ra chùm tim hoa. Mỗi chùm tim hoa gồm nhiều cọng
nhỏ xíu, ngắn, màu đỏ. Mỗi cọng màu đỏ này được nối liền với một phần nho nhỏ
hình bầu dục, cũng màu đỏ, phớt tý nhụy vàng.
Trước khi bắt đầu “đá”, Bảo-Trân thường đưa tim hoa lên, nói
với Thoa: “Chị coi nè, giống nốt nhạc
ghê, phải không, chị?” Cả hai cùng cười và bắt đầu cuộc chơi. Mỗi người
nhón nơi đầu ngón tay một tim hoa rồi cả hai mắc hai phần nhỏ hình bầu dục, như
nốt nhạc, vào với nhau, giật mạnh. Phần nhỏ hình bầu dục trên tim hoa của người
nào rụng trước, người ấy thua. Trò chơi chỉ có như vậy, nhưng Bảo-Trân và Thoa
chơi hoài không biết chán.
Đôi khi hai chị em đang chơi, cô Năm gọi Thoa vào, bảo Thoa
đem hoa quả đến Khuông Cấp-Cô-Độc để cúng. Thoa đi rồi, cô Năm hỏi Bảo-Trân có
muốn nhổ tóc ngứa cho cô không? Úi chao! Cái chi chứ nhổ tóc bạc cho cô Năm,
trong khi cô nằm võng đọc sách, Bảo-Trân thích vô cùng, vì cô Năm trả công một
đồng cho mười sợi tóc bạc.
Khởi đầu, Bảo-Trân nhổ mười sợi tóc trắng, đưa ra trước,
trình cho cô Năm xem đàng hoàng rồi giả vờ liệng đi, nhưng lại len lén để sang
một bên. Bảo-Trân mân mê mái tóc óng mượt của cô Năm một lúc rồi lén lấy mấy sợi
tóc lúc nãy ra trình lại với cô. Vì ham đọc sách và cũng vì tin tưởng đứa cháu
cưng, lúc nào cô Năm cũng “ừ” đại chứ không thèm nhìn. Vì vậy Bảo-Trân cứ tha hồ
đếm và số tiền công của Bảo-Trân cứ tăng nhanh, mà bé không phải nhổ thêm sợi
tóc nào nữa cả.
Mấy mươi năm qua, ngoài Bảo-Trân, không ai, kể cả cô Năm, biết
được sự “gian lận” đó. Mỗi khi nhớ đến sự “gian lận” này, Bảo-Trân thấy thương
cô Năm và nuối tiếc những ngày bé thơ với nhiều tội lỗi ngây ngô. Bảo-Trân nhìn
ra hàng hiên, nơi cô Năm thường treo chiếc võng được bện bằng giây gai, và nàng
chợt nhận ra sự thiếu vắng nào đó trong khoảng sân rộng. Bảo-Trân không đáp lời
Thoa mà lại hỏi lạc đề:
- Dường như ngày xưa trước ngõ có cây phượng, phải không, chị
?
- Đúng đó, em. Trước khi “giải phóng” vào, nghe đồn nhà ai rộng
sẽ bị trưng dụng làm trụ sở hoặc là để cán bộ sống chung, dượng Năm sợ quá, bán
đổ bán tháo mấy căn nhà bên cạnh. Về sau, chủ mới chặt cây phượng để rộng chỗ mở
quán ăn. Bây giờ, nhờ có người thân đi lao động bên Đông-Đức và Cu-Ba, họ giàu,
dẹp quán ăn, lên nhà lầu
- Khi Ba em viết thư sang, báo tin dượng Năm mất, em không
ngờ. Dượng cao lớn, khoẻ mạnh, tại sao Dượng mất sớm vậy, chị ?
- Trong khi con trai và con rể đều bị đi học tập cải tạo thì
Dượng bị khánh tận vào đợt nhà nước ra lệnh đánh mại bản lần thứ hai. Dượng chịu
không nổi!
Bảo-Trân chưa kịp bộc lộ tình cảm của nàng về cảnh sa sút của
gia đình Thoa thì bà Năm vừa bước ra vừa cài hạt nút cuối cùng của chiếc áo
cà-sa màu xám tro.
Bảo-Trân đốt nhang. Bà Năm gióng mấy hồi chuông trong khi Bảo-Trân
lâm râm khấn vái trước bàn thờ Phật. Lúc Bảo-Trân nhích sang bàn thờ Ông Bà, bà
Năm đến ngồi bên Thoa .
Khấn vái xong, Bảo-Trân đứng lặng nhìn bức ảnh quen thuộc của
bà Nội được đặt cạnh ảnh ông Nội, người có đôi mắt tinh anh, đôi chân mày quắc
thước và vừng trán rộng núp dưới vành khăn đóng màu đen. Sóng mũi của ông Nội
cao, thẳng, giống hệt mũi của ông Dư. Ông Nội mặc áo dài the đen, quần trắng,
mang giày da bóng loáng. Càng nhìn ảnh ông Nội Bảo-Trân càng thấy ông Dư giống
ông Nội rất nhiều; có khác chăng là ông Dư chưa hề mặc áo dài, chưa hề đội khăn
đóng. Bảo-Trân lạy tạ Ông Bà rồi đến ngồi cạnh bà Năm và Thoa để nghe thêm một
tin buồn về người cô luống tuổi:
- Bảo-Trân à! Cô Năm yếu lắm rồi, em. Cô không nghe và không
thấy rõ.
Bảo-Trân lặng lẽ cầm tay bà Năm, thở dài. Khối óc năng động
của Bảo-Trân bắt đầu nghĩ ngợi. Bốn mươi năm của một đời người biết bao nhiêu
biến động. Nhưng ngồi bên người cô mà ngày xưa Bảo-Trân thường nhõng nhẻo, thường
quấy rầy, thường “ăn gian” và phá phách, Bảo-Trân cảm thấy như nàng là một người
nào khác; còn đứa cháu ngày xưa của cô Năm dường như đang lởn vởn trong tâm cảm
nàng. Bảo-Trân phân vân, không hiểu được đời nàng đã thật sự trải qua khoảng thời
gian dài dằng dặc ấy hay không? Nếu không thì cụ bà trước mặt nàng là ai? Và cô
Năm ngày trước bây giờ ở đâu? Còn nếu nàng đã sống qua chuỗi thời gian ấy thì
nàng đã chia xẻ được tý nào trong muôn vàn nỗi bất hạnh mà người thân của nàng
đã từng gánh chịu suốt cuộc chiến và sau cuộc chiến? Bảo-Trân bị mặc cảm dày vò
dữ dội .
Sự dày vò này cũng đã nhiều lần dấy lên, xoáy sâu trong hồn
Bảo-Trân vào hôm nàng đến kinh tế mới thăm các em sau mấy mươi năm xa cách.
Hôm đó Bảo-Trân bàng hoàng đến tái tê khi theo các em vào
thăm nhà của từng đứa. Trong đời Bảo-Trân, ngoại trừ thời gian còn là đứa bé
con theo cha mẹ tản cư ra “vùng giải phóng” và sống dưới những túp lều tranh mục
nát, vách trét bằng đất sét nhào với rạ khô và nền nhà là đất sét nện cứng,
chưa bao giờ Bảo-Trân có thể tưởng tượng được gia đình nàng lại phải sống trong
những chòi tranh tồi tệ đến như vậy! Nhìn quanh bất cứ nhà nào Bảo-Trân cũng
không thấy giường chiếu hoặc bàn ghế mà chỉ thấy vài chiếc ghế đẩu nhỏ, thấp, bằng
nhựa và nhiều tờ lịch khổ lớn dán rời rạc lên bờ vách bằng ván được gở ra từ
thùng đạn pháo binh của thời V.N.C.H. Bảo-Trân tò mò: “Tại sao nhà người nào cũng đem ảnh mấy cô xẩm dán đầy hết vậy ?” Một
tràng cười ồ lên. Bảo-Trân nhìn quanh, ngạc nhiên, không hiểu câu hỏi của nàng
có chữ nào mang tính cách hài hước. Phiêu, em kế Bảo-Trân và cũng là người từ
chối sang Mỹ theo diện H. O., bước đến, gỡ nhẹ một tờ lịch xuống, để lộ ra một
khe hở dài trên vách ván, rồi cười: “Mùa
Đông đến rồi, không dán lại, để gió lùa vào tụi em chết cóng hết sao, chị!” Giữa
sự nghèo nàn của vùng kinh-tế-mới Bảo-Trân bỗng để ý đến mấy ngôi nhà đồ sộ được
xây bằng bê-tông cốt sắt và sơn màu chói chang. Sau khi được giải thích đó là
những ngôi nhà của Việt-Kiều, Bảo-Trân thầm nghĩ, không hiểu những Việt-Kiều đó
thuộc loại khai man để nhận trợ cấp xã hội của Mỹ rồi đi làm lãnh tiền mặt hay
là loại chuyên-viên-dàn-dựng-những-vụ-đụng-xe để đòi bảo hiểm bồi thường. Phiêu
lại lên tiếng: “Hồi trước Việt-Kiều có
giá, mấy người đó về đây vênh lắm, chị ơi! Sau này người mình mới biết, chỉ một
số Việt-Kiều ‘xịn’ thôi; còn toàn là thứ vợ bỏ, quỵt nợ, lường gạt hoặc làm ăn
thất bại mới xênh xang khi về xứ. Bây giờ lại có Tây-ba-lô nữa, chị ạ.” Bảo-Trân
nhíu mày: “Tây-ba-lô là tây gì?”
Phiêu giải thích: “Là mấy thằng Việt-Kiều
dỏm, ăn mặc chải chuốt, trong túi không có một đồng, trên lưng đeo cái xắc nhỏ,
bên trong đựng vài bộ quần áo, đi hết tỉnh này đến tỉnh khác, đem cái mã Việt-Kiều
ra để gạt gái tơ và đồng bào.” Bảo-Trân lắc đầu, không thể hiểu được tại
sao lại có những người đủ can đảm làm được những việc như vậy. Riêng Bảo-Trân,
từ hôm về quê nhà đến nay, chưa có bữa ăn nào Bảo-Trân cảm thấy ngon miệng và
cũng chưa có đêm nào Bảo-Trân ngủ được một giấc an lành, chỉ vì nàng thấy được
cảnh sống cùng cực và nghe nhiều thảm cảnh của người thân! Một đứa cháu khoèo tay Bảo-Trân, thố lộ điều khám phá quan trọng của
cháu: “Cô Hai! Cô Hai! Mấy nhà Việt-Kiều
đó đều có nhà cầu hết đó, cô Hai”. Bảo-Trân cười, trìu mến nhìn đứa cháu
trai còm cõi nhưng có nụ cười hóm hỉnh:
“Nhà nào lại không có nhà cầu, con.” Cả đàn em và cháu lại cười ồ lên. Bảo-Trân
lại ngơ ngác, không hiểu tại sao một câu nói như vậy lại bị mọi người cười.
Phiêu lại giải thích: “Ở kinh-tế-mới người
ta ‘làm việc đó’ ngoài bụi, ngoài đồng hay trong rừng.” Bảo-Trân giật mình.
Hơn bốn mươi năm trước, nơi “vùng giải phóng”, chính Bảo-Trân cũng thực hiện vấn
đề vệ sinh cá nhân trong những điều kiện như vậy; có khi còn “đi” ngay trên luống
khoai lang hay trong rẫy khoai mì! Rồi “giải phóng” về, cũng chỉ đem theo được
ngần ấy điều tốt đẹp thôi sao! Thấy vẻ trầm tư của Bảo-Trân, Phiêu vỗ nhẹ vai
nàng: “Hiện nay trên giải đất hình chữ S
này mọi người đều chủ trương sống cái đã, vệ sinh và chính trị tính sau.” Bảo-Trân
ngầm đồng ý với Phiêu. Mấy hôm nay, bất cứ nơi đâu, kể cả vùng kinh-tế-mới, Bảo-Trân
cũng thấy một sức sống, mà Bảo-Trân chưa thể xác nhận được là sức sống lành mạnh
hay là sức sống bệnh hoạn, đang vươn lên khắp mọi nẻo đường, dưới hình thức
quán ăn, quán bia ôm, quán cà-phê, giải khát. Điều Bảo-Trân chưa thể quen mắt
được là tại sao trong giờ làm việc của những ngày trong tuần mà hàng quán nào
cũng đông nghẹt người!
Ngoài hiện tượng ăn nhậu suốt ngày của người mình, Bảo-Trân
còn thắc mắc một điều nữa là tại sao trời vừa lập Đông, mát mẻ thế này mà ai
cũng mặc áo lạnh. Tệ hơn nữa, nhiều bà còn mặc áo lông, loại mua ở K-Mart,
Wal-Mart hoặc Target bên Mỹ, mang bao tay bằng len; nhiều ông đạp xe đạp hoặc
chạy xe gắn máy mà một tay cứ khư khư ép cái điện thoại cầm tay vào tai và đầu
đội luôn cái nón nỉ rất dày, có hai mảnh để che tai. Bảo-Trân nhận ra kiểu nón
này dành cho những người sống ở vùng Bắc Mỹ.
Trong khi Bảo-Trân nhìn những người đội nón vùng Bắc Mỹ và mấy
bà mặc áo lông bằng ánh nhìn khó hiểu thì những người này cũng xoi bói nhìn Bảo-Trân
như thầm hỏi: Dân ở đâu tới mà trời này lại mặc áo T-shirt ngắn tay, đi ngơ
ngơ, không biết lạnh?
Như nhận được “thông điệp” từ những người chung quanh, Bảo-Trân
nhìn y phục mình và thấy quả thật nàng không giống ai giữa thành phố này. Bất
giác tim Bảo-Trân se lại. Từ hôm qua đến nay, lang thang trên những con đường
đã đổi tên, Bảo-Trân cảm nhận được sự lạc lõng của nàng giữa lòng quê Nội thân
yêu! Những ngôi nhà nhiều tầng đã xóa đi tất cả nét xinh xắn, hiền hòa, nhưng lại
không che dấu được sự nghèo nàn của người dân và cũng không làm mờ được sự
chênh lệch quá kịch cỡm trong cuộc sống nơi một thành phố được phát triển không
có mô thức.
Khi đến thăm trường cũ, Bảo-Trân xúc động, bùi ngùi. Nhìn từ
xa ngôi trường không khác xưa, chỉ bẩn đi nhiều. Nhưng khi đến gần, ngẩng lên
nhìn cổng trường, bản Trường Trung-học Võ-Tánh đã được thay bằng Trường Cơ-sở
Lý-Tự-Trọng, Bảo-Trân cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ và nước mắt làm hoen đôi kính
cận.
Ngày xưa, mỗi chiều, giờ ra chơi, Bảo-Trân và Nguyên, cô bạn
gái duy nhất cùng lớp B4 với Bảo-Trân, thường đứng tựa lan can nhìn xuống sân
trường. Thời đó, làm thân con gái mà có người yêu là bị đàm tiếu, bị kết tội
thiếu đoan trang, mất nết, hư thân. Vì vậy Bảo-Trân phải nói dối mọi người rằng
Hoan, người yêu của nàng, là cậu của nàng. Do đó, khi thấy Hoan lượn Vespa chầm
chậm, ngẩng mặt nhìn lên lầu, Bảo-Trân biết Hoan tìm nàng; nhưng Nguyên không
biết cho nên hất khuỷu tay Bảo-Trân: “Ê,
Bảo-Trân, cậu nhà ngươi kia kìa”. Bảo-Trân cười thầm, không biết phải đáp
như thế nào. Nguyên tiếp: “Ối giời, cậu
nhà ngươi mết con bé nào mà lượn kỹ thế?” Bảo-Trân cứ tủm tỉm cười, mắt dõi
theo dáng Hoan.
Nhớ đến đây Bảo-Trân chợt giật mình, dường như từ ngày yêu
nhau cho đến nay Bảo-Trân chỉ biết dõi theo và mong đợi Hoan chứ chưa bao giờ nàng
được sống với Hoan trọn vẹn một tuần! Bây giờ, trước ngôi trường cũ và kỷ niệm
xưa, Bảo-Trân lại trở về trạng thái cô đơn, lạc lõng giống như hôm chiếc xe
thuê đưa nàng ngang trường Luật-Khoa Saigon!
Hôm ấy, nhìn suốt con đường Duy-Tân thẳng tắp, niềm ước mơ
duy nhất trong lòng Bảo-Trân là được thấy lại Hoan, sau nhiều ngày biền biệt với
lửa đạn, dừng xe lại, mở cửa xe, đón nàng về. Ngày xưa, cứ mỗi lần Hoan đến
đón, Bảo-Trân nghe không biết bao nhiêu tiếng còi xe gắn máy của các bạn chọc
phá nàng. Và hôm sau thế nào mấy cô bạn cũng hỏi Bảo-Trân về “người cậu phong
sương” của nàng. Nếu bây giờ bạn bè hỏi về “người cậu phong sương” ấy, chắc chắn
Bảo-Trân sẽ kể cho các bạn nghe một chuyện tình buồn. Nhưng hiện tại, quanh
nàng không còn ai nữa; có còn chăng là niềm tiếc nhớ đang cuồn cuộn dâng lên
trong lòng!
Khối tình cảm này cũng đã chổi dậy và dày vò Bảo-Trân dữ dội
lúc nàng đến thăm ngôi nhà cũ, ngay sau khi rời trường Luật.
Với nét mặt đăm chiêu, Bảo-Trân đứng trước ngôi nhà cũ để
chú tài xế bấm hộ mấy tấm ảnh kỷ niệm. Bỗng Bảo-Trân cảm thấy khó chịu như bị
ai nhìn lén từ phía sau. Quay mặt nhìn nhanh vào nhà, Bảo-Trân thấy, sau khung
cửa lá sách ở lầu hai, một cặp mắt đang nhìn xuống. Bảo-Trân hốt hoảng thu máy ảnh
và thúc chú tài xế lên xe. Chú tài xế chưa kịp cho máy nổ Bảo-Trân đã thấy nhiều
người kéo đến, âm thanh rù rì: “Bà Trưởng
về.” Một người đàn bà ló mặt vào cửa sổ xe: “Cô Hai! Mấy em có về không, cô Hai?” Nhận ra giọng người giúp việc
cũ, Bảo-Trân ngạc nhiên: “Dung, phải
không?” Người đàn bà quẹt nước mắt: “Dạ,
em, cô Hai.” Bảo-Trân lấy ít tiền, dúi vào tay Dung: “Cô phải đi ngay. Người ta nhìn cô từ trên lầu kìa. Cho cô gửi lời
thăm mọi người.” Dung bật khóc: “Trời
ơi! Sao thảm vầy, cô? Nhà cửa của cô, cô không ở được, nay cô về thăm lại phải
lén lút như kẻ trộm!” Chú tài xế chen vào: “Sao cái nhà đẹp vậy mà họ không sơn phết gì hết, để dơ dáy quá!”
Dung đáp: “Đáng lẽ họ sơn mấy lần rồi đó;
nhưng vì nghe tin nhà nước sắp trả lại nhà cho Việt-Kiều nên họ nói sơn chi cho
mất công. Kỳ này về cô tính lấy nhà lại, phải không, cô Hai?” Bảo-Trân lắc
đầu, kín đáo dục chú tài xế: “Đi!”
Chiếc xe du lịch đã chạy xa nhưng Bảo-Trân vẫn cố ngoái lại nhìn lên lầu ba.
Khoảng sân thượng là nơi mẹ con nàng thường nhìn về phía xa, mong ngóng tin
Hoan vào những ngày cuối tháng Tư năm 75.
Tháng Tư năm 1975, bên cạnh có các con nhưng sao Bảo-Trân vẫn
thấy bơ vơ trống vắng lạ lùng. Bây giờ, một mình trở lại trường Võ-Tánh, tình cảm
Bảo-Trân lại cũng rơi vào trạng thái xưa!
Như muốn xoa dịu niềm ray rức, Bảo-Trân đón chiếc xích-lô,
nhưng chưa biết phải đi đâu. Khi bác xích-lô đạp xe đến Ngã Sáu, Bảo-Trân mới nảy
ra ý định lên Phú-Vinh thăm thầy Lê-Văn-Đào, giáo sư Anh văn, và cũng là bạn
thân của ông Dư.
Chiếc xích-lô vừa qua khỏi ga xe lửa một đoạn ngắn, Bảo-Trân
đã chóa ngợp trước hai dãy nhà lầu dọc theo quốc lộ Một. Ngày trước, mỗi lần
cùng các bạn đạp xe đạp hoặc đi xe lam lên chùa Hải-Đức, Chợ-Mới hoặc Thành, Bảo-Trân
có thể thấy, bên trái quốc lộ, đường xe lửa chạy song song với đường nhựa, chỉ
cách nhau một trủng sâu đầy bèo và rau muống, dài từ Mã-Vòng đến Chợ-Mới; và
bên phải là đầm sen với hàng dừa lã bóng. Ẩn sau hàng dừa là trường tiểu học Bồ-Đề,
rồi trường trung học Bồ-Đề và chùa Phật-Học. Bây giờ đầm sen đã bị lấp, trường
Bồ-Đề đã bị khuất, chỉ còn chùa Phật-Học ló dạng trên mấy tầng cấp cao. Hai
hàng khuynh diệp trước chùa Phật-học vẫn còn, nhưng hai hàng cây muồn dọc quốc
lộ Một không còn nữa.
Sự thiếu vắng hai hàng cây muồn khiến Bảo-Trân tiếc ngẩn tiếc
ngơ như tiếc nỗi rộn ràng của một đứa bé gái trên chuyến xe lửa trở về quê Nội
sau bao nhiêu năm dài theo gia đình tản cư!
Ngày đó, xe lửa vừa qua khỏi vườn dừa ở Chợ-Mới, ông Dư đã
chỉ cho Bảo-Trân khoảng không gian êm ả bên trái con tàu: “Tới Nhatrang rồi đó, con. Đây là Mã-Vòng. Qua khỏi Mã-Vòng là nhà ga.”
Bà Dư tiếp lời chồng: “Hồi con mới biết
đi, Ba Má đem con từ Dalat về thăm Nội. Khi xe lửa vừa vào ga, máy bay Nhật ào
đến thả bom. Nhà ga sập, không biết bao nhiêu là người chết!” Giọng ông bà
Dư đượm chút bùi ngùi, nhưng vì còn nhỏ, Bảo-Trân không nhận biết được nên lòng
bé chỉ thấy xôn xao vui thích khi nhìn những đóa hoa vàng nở rộ trên hai hàng
cây muồn khẳng khiu.
Phải hơn bốn mươi năm sau, nhân chuyến từ bên kia địa cầu trở
về quê Nội, Bảo-Trân mới hiểu được tại sao ngày đó, trên chuyến xe lửa từ
Ninh-Hòa vô Nhatrang, và suốt những ngày sống trong trại tạm cư ở Xóm-Mới, lúc
nào gương mặt ông bà Dư cũng buồn buồn và giọng nói thường đượm nhiều xót xa .
Đến khi ông Dư đưa gia đình trở về Dalat, gặp lại ông bà Ngoại, Bảo-Trân mới nhận
biết niềm u buồn cùng nỗi xót xa phai dần trong mắt và trong giọng nói của ông
bà Dư.
Bây giờ nhớ lại chuỗi ngày mới hồi cư từ “vùng giải phóng”,
lòng Bảo-Trân cũng nặng chĩu xót xa. Chiếc xích-lô thong thả qua khỏi Mã-Vòng.
Bảo-Trân đinh ninh sẽ thấy lại vườn dừa sai trái chỗ khúc quanh; nhưng không.
Vườn dừa bị đẩy lùi vào trong xa. Quốc lộ Một “nở” rộng ra như con sông vào mùa
nước lũ, cuốn theo hai hàng cây bàng, cây sao và những kiến trúc xa xưa của hai
dãy nhà dọc theo con lộ chính ở Phú-Vinh.
Nhìn ngôi nhà thầy Lê bị đập sập hết một phần ba, Bảo-Trân
phân vân, không biết đúng nhà hay không. Giữa lúc đó, từ phía nhà sau, một người
đàn ông đứng tuổi bước ra sân, khom xuống sắp mớ rui mè lại cho ngay ngắn. Nhận
ra thầy Lê, nhờ vầng trán rộng và cao của thầy, Bảo-Trân bước nhanh đến:
- Dạ, thưa thầy.
Quá bất ngờ, thầy Lê đứng thẳng lên, nhìn Bảo-Trân không chớp
mắt. Bảo-Trân cười, tiếp:
- Thầy không nhận ra con sao?
Thầy Lê đưa ngón tay trỏ gõ gõ lên trán:
- Nhận ra chứ, nhưng không nhớ tên. Con “thằng” Dư, phải
không?
Ngày xưa, mỗi khi thầy Lê đến nhà thăm ông Dư, Bảo-Trân bưng
nước mời và gọi thầy Lê bằng Bác. Bây giờ nghe thầy Lê nhắc đến ông Dư một cách
trìu mến, Bảo-Trân trở lại cách xưng hô trong gia đình:
- Dạ, Bác vẫn còn nhớ Ba con. Con tên là Bảo-Trân.
- Đúng rồi. Vô
đây, con.
Suốt cuộc viếng
thăm, thầy Lê và Bảo-Trân nhắc lại những ngày gia đình ông Dư mới hồi cư, đến
những người cháu của thầy ngày xưa cùng học với Bảo-Trân, cùng những người bạn
của thầy và của ông Dư mà Bảo-Trân biết như chú Gia (nguyên đại tá
Q.L.V.N.C.H.), thầy Như và thầy Dưỡng. Thầy Dưỡng đã chết trong trại tù
Nghĩa-Phú. Giọng Bảo-Trân bùi ngùi:
- Con có đi ngang
nhà thầy Dưỡng, trên đường Hoàng-Tử-Cảnh.
Thầy Lê cười buồn:
- Nay đổi là đường
Hoàng-Văn-Thụ.
- Dạ. Từ hôm con
về đến nay con cảm thấy hoàn toàn xa lạ và lạc lõng ngay chính trên phần đất mà
con đã lớn lên. Vì vậy con mới cảm thông được tâm trạng của nhân vật
George Webber trong cuốn truyện You Can't Go Home Again của Thomas Wolfe.
- Bác không muốn con mang tâm trạng của George; bởi vì cuối
cùng George quay lưng lại với mảnh đất xưa. Còn con, bác mong con trở về, vì
đây chính là nhà. Con nhớ không? Ba con, sau bao nhiêu năm lưu lạc, vẫn tìm về
nhà; bây giờ lẽ nào con chỉ tìm thấy những điều tốt đẹp trên mảnh đất tạm dung?
- Nhưng thưa Bác, sự trở về của Ba con ngày đó và của con
ngày nay hoàn toàn không mang cùng ý niệm.
- Bác hiểu con muốn đề cập đến điều chi rồi, Bảo-Trân ạ! Con
đã tiêm nhiễm ít nhiều triết lý Phật-Giáo, con nghĩ “họ” có thoát khỏi lẽ vô
thường hay không?
Nếu tin vào quả báo thì tại sao sự ác cứ chập chùng vung vãi
mãi trên mảnh đất tội nghiệp này? Nếu lẽ vô thường ứng đúng với mọi loài thì tại
sao, suốt nửa thế kỷ qua, khối dân tộc này vẫn triền miên trong khốn khó? Không
biết bao nhiêu lần Bảo-Trân tự hỏi mình những câu hỏi tương tự. Bây giờ bị thầy
Lê đặt câu hỏi trực tiếp, Bảo-Trân hoang mang. Thầy Lê tiếp:
- Bác nghĩ rằng không. Tất cả rồi sẽ bị đào thải, chỉ còn mảnh
đất này, dân tộc này và vùng trời này là vĩnh cửu.
- Con cũng nghĩ như vậy cho nên con buộc các cháu bên ấy nói
tiếng Việt, ăn cơm Việt và thành hôn với người Việt.
Thầy Lê chưa kịp khen cô học trò cũ thì cô Lê bước vào với
cái giỏ bằng ny-lông đựng rau cải. Thầy Lê hất mặt về phía cô:
- Em biết ai đây không?
Xoay sang Bảo-Trân, thầy Lê tiếp:
- Cô mới đi chợ về.
Vượt quá sự dự đoán của Bảo-Trân và thầy Lê, cô Lê nhận ra Bảo-Trân
ngay. Sau khi chào hỏi, cô Lê vừa đi xuống bếp cất thức ăn vừa than:
- Xin lỗi Bảo-Trân nghe. Nhà cửa dơ dáy, bề bộn quá, vì nhà
nước ra lệnh phải đập phía trước để họ mở đường.
Bảo-Trân nhìn thầy Lê:
- Họ có bồi thường cho dân không, thưa Bác?
- Có, mà không bao nhiêu.
Quen lối suy luận bên Mỹ, Bảo-Trân tròn mắt:
- Nếu không bao nhiêu tại sao dân đồng ý?
- Không đồng ý cũng không được, con ạ. Bác nói thật, chỉ có
“ho” mới dám làm như vậy chứ chính phủ mình đời nào dám.
Hai bác cháu cùng cười và đi theo cô Lê ra nhà sau. Ngang
mái hiên gần cái giếng, Bảo-Trân thấy một bảng đen nhỏ treo trên vách. Trên bảng
đen, nét phấn trắng nổi bật: Such is life. Chỉ ba chữ vô nghĩa ấy thôi nhưng
sao Bảo-Trân cảm thấy bồi hồi như cụm từ ấy biết tỉ tê! Phải một lúc sau Bảo-Trân
mới nhớ ra rằng, dạo nàng học đệ ngũ, thầy Lê dạy theo cuốn Cinquième Bleu;
trong ấy có một bài học về các loài chim. Thầy Lê dịch chim Nightingale là chim
Minh-Nguyệt. Sau khi giới thiệu về các loài chim, tác giả diễn tả cảnh chim mẹ
mớm mồi nuôi con và tập cho chim con bay. Cuối bài, tác giả kết luận: Những con
chim non rồi sẽ vỗ cánh bay xa, vì đời là thế. Such is life.
Ngày đó, khi đọc đến đoạn này, Bảo-Trân buồn vô cùng và thường
tự hỏi không biết lũ chim non, sau khi vỗ cánh bay xa, có nhớ tổ mà bay về hay
không? Giờ đây, hơn ba mươi năm sau, Bảo-Trân cũng chưa biết loài chim non có
bay về tổ cũ hay không. Và nếu có trở về tổ xưa, loài chim sẽ nghĩ gì và cảm nhận
được gì?
Riêng Bảo-Trân, từ hôm trở về quê Nội đến nay, trong muôn
vàn kỷ niệm của tuổi thơ, không thể nào Bảo-Trân không nhớ đến cuộc gặp gỡ giữa
Dũng, một sinh viên Quân-Y, và nàng, tại cửa hàng của gia đình Dũng. Sau lần gặp
gỡ bất ngờ đó, vào những ngày Tết hoặc Hè, Dũng thường đến nhà nghe Bảo-Trân
đàn. Dũng cũng gửi cho nàng những lá thư hết sức thiết tha nhưng Bảo-Trân giả vờ
như không biết, vì trong lòng nàng đã có hình bóng của Hoan.
Một buổi chiều, đang cùng mấy cô em của Dũng tung tăng trên
bãi cát, sát mí nước, Bảo-Trân chợt nghe tiếng Dũng: “Lớn rồi, đừng nghịch nữa.” Bảo-Trân vội dừng chân. Mấy cô em của
Dũng lẻn đi mất. Dũng đến gần, hỏi: “Tại
sao đi biển mà lại xách guốc để chân bị ướt hết vậy?” Bảo-Trân bẽn lẽn: “Dạ, tại vì Bảo-Trân thích nhìn sóng xóa dấu
chân mình.” Dũng hỏi: “Thế có bao giờ
Bảo-Trân muốn tìm lại vết chân của mình không?” Bảo-Trân chưa kịp đáp thì một
lượn sóng tràn vào. Tính nghịch ngợm nổi lên, Bảo-Trân bước nhanh vào vùng cát
phẳng phiu mà sóng vừa trườn mình qua. Nhìn lượn sóng từ từ lùi khỏi bờ cát,
xóa tan vết chân của Bảo-Trân, Dũng cười: “Bây
giờ thì thích nhìn sóng xóa dấu chân mình; nhưng một ngày nào đó em sẽ muốn tìm
lại vết chân xưa đó, Bảo-Trân ạ.”
Ngày đó, câu nói mang nhiều ý nghĩa của Dũng không gây được
tý ấn tượng nào trong lòng cô bé mới lớn, vừa biết yêu lần đầu. Nhưng bây giờ,
sau không biết bao nhiêu lần nếm mùi vị đắng cay của mối tình đầu bồng bột, Bảo-Trân
nghĩ về câu nói của Dũng với tất cả xót xa, ngậm ngùi!
ĐIỆP MỸ LINH