08 April 2017

TRƯỜNG XƯA BẠN CŨ – Điệp Mỹ Linh

Vì đến trễ, tôi phải sắp hàng nơi cửa hội trường chờ người kiểm vé. Trong khi đứng đợi, tôi nghe ban nhạc đang hòa tấu một nhạc khúc rất quen thuộc. Rồi một tổng hợp âm thanh nữ vang lên: “Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh, muôn chim hót vang lên êm đềm…”(1) Tôi chợt cảm thấy nôn nao trong lòng, vội chồm người về phía trước để nhìn lên sân khấu.

Trên sân khấu, hai hàng phụ nữ mặc đồng phục trắng, trên mỗi chiếc áo dài có một vệt đen dài xeo xéo nơi tà áo phía trước. Vừa hát những phụ nữ này vừa uốn nhè nhẹ thân hình theo điệu Valse Lente: “…Trường làng tôi không giây phút tôi quên nơi sống bao kỷ niệm ngày xanh…” Âm điệu êm đềm của dòng nhạc và sự lay động nhẹ nhàng của những tà áo dài như từng đợt sóng ngầm dìu hồn tôi trở về khung trời mà tôi đã  phải lìa xa. Trong trạng thái bềnh bồng, tôi tưởng như tôi có thể thấy lại tôi của những ngày thơ dại, chỉ biết đi học rồi về miệt mài với cây đàn.
Khi mới bắt đầu dạy tôi học đàn Accordéon, ngoài những bài thực tập trong sách, Ba tôi thường tìm những bản nhạc dễ đàn để tôi đàn cho khỏi chán. Một trong những bản nhạc Ba tôi cho tôi đàn là bản Trường Làng Tôi. Tôi vừa nhìn bản nhạc vừa để ý bàn tay của Ba tôi và vừa nghe Ba tôi đếm “chát chát chình, chát chát chinh” để vào cho đúng temps fort (thì mạnh).
Thời gian học Accordéon tôi chưa hiểu nhiều về nhạc lý, nhưng không hiểu tại sao mỗi khi đàn nhạc khúc Trường Làng Tôi, giai điệu thiết tha của bản nhạc như quyện vào hồn tôi và trong lòng tôi niềm bùi ngùi thương cảm cứ dâng tràn.
Niềm bùi ngùi thương cảm lại trở về chất ngất trong tôi khi tôi trở về quê Nội, ghé thăm Trường xưa sau hơn 30 năm xa cách.
Trường tôi vẫn như xưa, vẫn mái ngói đỏ và tường sơn màu trứng sáo. Hôm ghé thăm thầy Bửu Thả – giáo sư toán và cũng là giáo sư hướng dẫn lớp tôi, lớp Tam B4 – Thầy bảo: “Chừ không còn là Trường Trung Học Võ-Tánh nữa mô!” Tôi buồn nhưng chưa cảm thấy xót xa. Đến khi tôi đứng trước ngôi Trường xưa, dưới một bảng tên tôi chưa từng biết khi học Việt sử, lòng tôi mới đắng cay, ngậm ngùi!
Sự ngậm ngùi cứ dâng lên, dâng lên mãi khiến tôi muốn đi nhanh đến chiếc xe thuê như trốn chạy, như chối bỏ một thực thể mà tôi không chấp nhận được! Nhưng không hiểu tại sao đôi chân của tôi lại không thể rời Trường!
Tôi tựa vào gốc cây sao, nhìn lên lầu, nơi lớp đệ Tam B4 – toàn Trường thường “chọc quê” chúng tôi, gọi là “Bê Bối” – chỉ có hai nữ sinh là Đỗ Thị Nghiên và tôi.
Nghiên, về sau dạy học tại Quảng-Ngãi. Khi Nghiên theo chồng sang Mỹ theo diện H.O. tôi sang San Jose thăm Nghiên ngay. Nghiên bỏ tấm nệm trên sàn nhà, “ra lệnh” cho tôi: “Mày ở đây, ngủ tại đây. Mày mà ra khách sạn, tao…từ mày liền.” Suốt đêm nhắc lại thời thơ ấu trong các lớp “Bê Bối” dưới mái trường Võ-Tánh, Nghiên kể cho tôi nghe về những nam sinh mà Nghiên đã lên lạc được.
Sau này Nghiên trở thành Ni Sư Thường Như.
Cố nhớ lại tên những nam sinh mà Nghiên đã liên lạc được, tôi chỉ nhớ vài người.
Người tôi luôn nhớ đến là Lưu Khương Đức. Đức hiền, học giỏi nhưng tôi không ngờ Đức đã “cả gan” tình nguyện về Biệt Động Quân. Và Đức đã tử trận trong một cuộc đụng độ rất ác liệt với địch quân, tại Pleiku!
Rồi Phú “đen” gia nhập Không Quân. Phú “đen” đã tử trận khi trực thăng do Phú “đen” lái bị trúng hỏa tiễn của địch.
Đến Vũ Công Tạo, người bị địch bắt, bị cầm tù, về sau được trao trả tù binh.
Và Nguyễn Đăng Dự, sau này là hiệu trưởng trường trung học Pleiku. Dự kể cho tôi nghe – khi vợ chồng Dự từ Canada sang Houston thăm tôi – khi cuộc rút quân đẩm máu từ cao nguyên theo tỉnh lộ 7 đang diễn ra, giữa những tràng pháo kích ồ ạc của địch quân, Dự và vợ con không biết làm thế nào để thoát khỏi những trái đại pháo và dòng người cùng xe cộ ngổn ngang trên đường thì một quân nhân từ trên xe nhà binh nhận ra Dự, gọi lớn: “Thưa Thầy.” Dự nhìn bảng tên của anh sĩ quan trẻ, thấy Lại-Quyền-Thế. Thế chận chiếc xe chở hàng, buộc tài xế phải cho gia đình của Dự lên xe. Khi dòng người chạy loạn đến cầu Sông Ba, Dự thấy nhiều trực thăng vận tải quân dụng để Công Binh dựng cầu dã chiến cho đoàn người qua sông. Trong cảnh hỗn loạn này, Lại Quyền Thế lại xuất hiện. Thế canh chừng, khi trực thăng vừa thả quân dụng xong, Thế giúp gia đình Dự lên trực thăng, còn Thế ở lại! Vừa vào trực thăng, Dự lại ngạc nhiên khi nghe anh phi công: “Dạ, thưa  Thầy.”
Dự cũng kể cho tôi nghe nhiều nam sinh ngày xưa học lớp “Bê Bối” sau này thành công trên nhiều lãnh vực. Nhưng tôi chẳng nhớ được tên.
Tôi chẳng nhớ được tên những người bạn đã thành công trên đường đời; nhưng tôi lại không thể quên được những người Bạn đã hy sinh tuổi trẻ, đã hy sinh một phần cơ thể và cũng có Bạn đã hy sinh cả mạng sống để chúng tôi được yên bình chốn hậu phương.
Những người bạn đã dấn thân của lớp “Bê Bối” có: Phạm Khắc Sinh, Luyện Thái, Nguyễn Minh Châu, Trần Chính Tùy,  Huỳnh Trí Chánh, Bùi Ngọc Long, v. v…
Ngoài những bạn bên “Bê Bối” tôi còn có bạn Nguyễn-Đình-Tân, “dân” B2. Tân rất điễn trai, lúc nào cũng cười và đôi môi hồng hồng. Tân tình nguyện gia nhập Không-Quân. Sau khi tu nghiệp tại Mỹ, trở về, trong một chuyến công tác, chiếc C-130 do Tân lái đã bị bắn hạ tại đèo An-Khê!
Lớp B2 còn có Bùi Tiết Quý và Mùi gia nhập khóa 14 sĩ quan Hải-Quân. Mùi đã mất tích ngoài biển khơi khi chiến hạm đang tuần dương!
Quân chủng Hải-Quân cũng thân ái đón nhận những người ban B như Nguyễn Lương Thuật và Nguyễn Đình Sài vào khóa 16 và Nguyễn-Dinh vào khóa 13 sĩ quan. Dường như Dinh học lớp B3, tôi không nhớ rõ.
Khi đơn vị của Dinh, Giang Đoàn 24 Xung Phong, tham dự hành quân vùng Dầu-Tiếng, Dinh bị mìn, nát cả đôi chân! Bố của các con tôi – Hải Quân Trung Tá Hồ Quang Minh –  cho tôi biết tin Dinh bị thương và cẩn thận dặn tôi: “Muốn đi thăm Dinh thì đi ngay; vì không biết Dinh có thể ‘qua’ được hay không!”
Minh đưa tôi đến ngay bệnh viện Cộng-Hòa. Nhìn đôi chân của Dinh được băng bột, cứng, to và máu đã khô, trở nên sần sùi như gốc cây sao trước Trường Võ-Tánh, tôi khóc! Dinh vẫn mê man trong khi tôi cứ âm thầm quẹt nước mắt, thương người Bạn xưa!
Một lúc sau, Dinh mở mắt, nhìn tôi. Tôi hỏi: “Dinh! Biết ai đây không?” Dinh đáp: “Biết. Thanh Điệp”.
Trong những dòng nước mắt khóc thương các bạn nam sinh tôi cũng dành những giọt lệ muộn màng khóc chị Đỗ-Minh-Tham, người bạn ban A. Chị Đỗ-Minh-Tham, biệt hiệu Thúy-Minh, ngày xưa cùng sinh hoạt với tôi trong ban ca nhạc Bình-Minh – do Ba tôi, Cụ Điệp-Linh, thành lập để phụ trách phần văn nghệ cho đài phát thanh Nha-Trang – vào mỗi tối thứ Năm và tối Chủ Nhật.
Được tin chị Đỗ-Minh-Tham qua đời, tôi đi New York, dự đám tang của Chị.
Khi được chị Đỗ-Khánh-Niệm, là chị của chị Đỗ-Minh-Tham và cũng là phu nhân của Cố Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương – vị bác sĩ, trước năm 1975, đã cầm lựu đạn ngồi trước Quốc Hội – bảo hãy nói vài lời tiễn biệt chị Thúy-Minh, tôi đã nhắc lại những kỷ niệm với chị Thúy-Minh dưới mái Trường Võ-Tánh cùng những kỷ niệm văn nghệ với chị Thúy-Minh trong ban Bình-Minh. Trước khi dứt lời, tôi nói: “Thưa chị Thúy-Minh, em xin lỗi Chị, em không thể ở lại để dự lễ hỏa thiêu của Chị. Em không đủ can đảm nhìn Chị bị hủy diệt. Đối với em, Chị không thể bị hủy diệt!”
Ai rồi cũng sẽ bị hủy diệt, vì đó là lẽ Vô Thường! Nhưng lẽ Vô Thường chỉ có thể hủy diệt xác thân của Bạn tôi; nhưng trong lòng tôi, nhân dáng và kỷ nệm của những người Bạn này vẫn sống mãi.
Dòng hồi tưởng của tôi vừa đến đây thì người kiểm vé đưa tôi vào bàn.
Nhìn những vạt áo dài có vệt đen xeo xéo của ban hợp ca, tôi tự hỏi: “Có phải vệt đen đó để tang cho Ngôi Trường Đã Mất Tên hay không?” Trong khi tôi không thể tự giải đáp được thì ban hợp ca đang hát đến câu cuối. Tôi không hát theo nhưng trong lòng tôi tiếng hát ngân dài, vang xa: “Trường làng tôi không giây phút tôi quên, dù cách xa muôn trùng Trường ơi!”
Tôi lấy khăn giấy, thấm nhẹ những giọt nước mắt, lòng ngậm ngùi nghĩ đến các Bạn tôi – những người trai rất xứng đáng là Hậu Duệ của Danh Tướng Võ-Tánh trong Thiên Hùng Sử Việt-Nam.

ĐIỆP-MỸ-LINH

(1) Những phần trích dẫn là lời ca trong nhạc khúc Trường Làng Tôi của Phạm Trọng Cầu.

* Ảnh Newvietart.