Tôi chơi thân với Văn từ những năm đầu trung học. Thân lắm. Gia cảnh Văn tuy
khó nhưng nó học giỏi cực kỳ. Tôi thì ngược lại. Cha tôi thường đem Văn ra để
làm gương cho tôi soi. Ông mắng nhiều câu mà tôi xa xót lắm:
– Mày đi mà giặt quần cho thằng Văn. Học hành như mày ba bữa chỉ có
nước lên rừng chặt củi đốt than.
Mộng của cha là thằng tôi phải đậu hết các cái từ tú tài 1 cho đến 2. Đậu
luôn y khoa làm anh bác sĩ để thây không phơi ngoài chiến địa. Thi xong tú tài
1 biết chắc mình trăm phần trăm trượt võ chuối tôi đi thẳng vô Đồng Đế Nha
Trang, chấp nhận cái lon trung sĩ mặc kệ ông cha tội nghiệp chạy chọt để học
lại. Học lại làm chi khi biết mình dỡ ẹc.
Văn tú tài ưu hạng và vào ngay sĩ quan Thủ đức. Chả phải nó yêu chi binh
nghiệp mà bởi nhà Văn nghèo. Anh của một bầy em sáu đứa. Anh ruột nhưng Văn là
con riêng. Ông dượng là binh nhất trong quân đội cộng hoà, cho Văn ăn học được
tú tài là một nổ lực to lớn. Số là trước năm đất nước chia đôi. Bà má Văn giã
từ ông chồng và thằng con trai sinh đôi tên Vũ rời Quảng Bình vào Huế để nuôi
bệnh bà mẹ chồng. Thương thay bà mẹ quy tiên nơi đất khách. Ôm con đứng bên nầy
bờ Hiền Lương má Văn khóc hết nước mắt thương chồng và đứa con chả biết bao giờ
gặp lại. Than ôi là chiến tranh. Nó ngày càng phức tạp và chuyện thông cây cầu
là không tưởng. Năm Văn lên bốn tuổi thì bà má bước thêm bước nữa. Biết làm sao
giữa thời loạn lạc? Ông chồng sau là lính nên Văn cũng rày đây mai đó. Nó và
gia đình định cư ở Bình Định sau khi đi qua ít cũng năm tỉnh thành. Lang bạt
vậy mà cái chi Văn cũng giỏi. Tôi phải hai keo mới vào được đệ thất công lập,
mà lại đậu dự khuyết mới là nhục nhã. Còn Văn ngọt như mật. Cha tôi bảo ngày
sau tôi cu ly xe kéo âu cũng có lý. Tôi cũng muốn giỏi lắm chứ. Và giỏi đâu có
dễ. Đúng không?
Sau sáu tháng lăn lê trên thao trường thằng tôi may mắn ơi là may mắn khi
được gọi đi học một khoá y tá ở Tổng y viện cộng hoà trong Sài gòn. Vậy là tôi
hoàn thành được ít cũng ba mươi phần trăm ước vọng của ông cha khó tánh. Không
bác sĩ thì y tá. Bác sĩ kim tiêm cho thuốc thì y tá thua chi? Ra trường tôi
chọn sư 3 bộ binh làm nơi tung hoành, đúng với tinh thần: “ thân trai chí ở bốn
phương”. Nghe tôi đi Quảng Trị cha tôi tế lên đầu tôi một trận. Rằng ngu như
bò, tại sao gần nhà không chọn lại chọn nơi chết để chui đầu? Đúng là một tinh
thần hủ bại – tôi nghĩ vậy – ai cũng xó bếp để vinh thân phì gia thì lấy đâu ra
câu đừng cười ta ngủ say ngoài chiến địa?
Khốn thay. Cái năm ’72 đỏ lửa suốt mùa hè ấy sư 3 của tôi thiếu điều xoá sổ.
Tôi đang ở căn cứ Carol phải tháo chạy vì pháo kích chịu không xiết. Chạy một
hơi khỏi Quảng trị vô Huế vô luôn Đà nẵng. Suốt một thời gian dài tôi không dám
mò ra phố vì sự quá khích của các sắc lính khác. Họ gọi sư 3 là sư đoàn chạy
làng. Và bảo vì chúng tôi nên mất Quảng Trị. Với tư cách hạ sĩ quan quân
y tôi được biệt phái về tiểu đoàn 3 thiết giáp. Lâu lâu về dưỡng quân nghiêng
cái bê rê đen trên đầu ra phố uống cà phê đấu láo trông oách không thua anh mũ
nồi nào. Và thật bất ngờ tôi gặp lại Văn ở Phước Tường. Văn trong đồ hoa mũ
nồi xanh thuỷ quân lục chiến với hai mai trên cầu vai. Uy phong lẫm liệt.
Mấy thằng gạc đờ co theo hầu trung uý Văn ngạc nhiên khi thấy xếp của chúng
mày mi tao tớ với một trung sĩ quèn là tôi. Tôi cũng văng tục khi kể về những
ngày xưa thân ái ở Bình Định. Sau đó trên Jeep lùn Văn múa vô lăng chở tôi ra
Huế thăm người bà con nó ở Huế. Đây là cái gia đình mà xưa kia bà má Văn tạm
ngụ để nuôi mẹ chồng bệnh tật. Ở đây tôi bị đập chết bởi một nhan sắc có cỡ, em
bà con của Văn. Cô cũng có vẻ mến thằng tôi khi Văn kể về sự tử tế của cha má
tôi với gia đình nó trong Bình Định. Thật may mắn khi Bạch Hoa – tên cô gái –
không xem câu thà chết trên cành mai làm phương châm thăng tiến. Cô
thích thằng trung sĩ quèn là tôi. Vậy là thứ bảy nào tôi cũng cố cho bằng được
một cái sự vụ lệnh để ra Huế thăm người mộng. Cha má cô gái lo lắm. Vì sao? Vì
lấy chồng lính tráng thì hát ngày mai đi nhận xác chồng, quay đi để thấy
mình không là mình chắc trăm phần trăm.
Nhưng sự âu lo của hai ông bà già nhanh chóng được hoá giải bởi mùa xuân
’75. Sư 3 của tôi lại tiếp tục chạy. Lần nầy thì đừng đổ thừa nữa nghe. Chạy
sạch từ đồ hoa mũ nồi đến ô liu nón sắt. Quăng cả súng mà chạy. Tôi tuôn vô
Bình Định thì cha má tôi vô Sài gòn. Tôi ghé qua ăn cơm ké nhà Văn. Cha má Văn
không di tản bởi không tiền. Ông dượng của Văn thì bảo rằng chạy đâu cũng vậy.
Chính phủ nào cũng rứa. Một tuần sau cha má tôi và Văn cũng hồi cố hương vì Sài
gòn giải phóng rồi. Văn gặp cha má tôi ở Xuân Lộc:
-May quá – Văn nói – không có ba má mày chắc tao đi bộ về quá.
Ai vui vì hoà bình đâu không biết chứ thằng tôi và Văn thì sốt vó bởi hai từ
nguỵ quân. Tôi trung sĩ quèn chả nói làm chi chứ trung uý lại là sắc lính nằm
trong dạng ác ôn mới là mệt cho Văn lắm lắm. Đời nghĩ thiệt buồn cười. Mới ngày
nào đổ tú tài thiên hạ vừa tung hê vừa ghen tỵ. Mang cái hoa mai trên vai áo
lắm kẻ suýt xoa. Nay thằng rớt tú tài ra anh trung sĩ như tôi thì:
-May mà mày rớt chứ đậu mà ra uý như thằng Văn thì lúa lép phen nầy.
Đang lo cho ngày mai chả biết ra sao thì Bạch Hoa từ Huế vào thăm gia đình
Văn. Tất nhiên là thăm tôi luôn. Đi cùng cô là một sĩ quan bộ đội.
Anh ta tên Vũ. Anh em sinh đôi của Văn.
***
Thôi thì khỏi nói cái sự mừng của bà mẹ tội nghiệp. Nhìn bà khóc là tôi hiểu
cái tình thương dành cho đứa con vì chiến tranh nên ở lại bên kia dòng
khắc nghiệt nó đậm sâu cỡ nào. Vũ thì ôm lấy bà mẹ, bắt tay Văn. Tất nhiên là
hai thằng đàn ông Văn Vũ nầy khó lấy nước mắt của họ lắm. Lính tráng mà, ai chả
đi qua những đớn đau và mất mát? Tâm tư có chai cứng cũng là điều dễ hiểu. Riêng
tôi thì thèm được như Văn. Có thằng anh em sĩ quan trong tư thế thắng cuộc ít
nhiều cũng bảo lảnh cho người thân cái cải tạo. Nhà Văn có hai ông nguỵ cuốn
gói đi cả hai thì sáu đứa em và bà má tội nghiệp có mà vác bị đi ăn mày. Vậy là
hết sức tình thương mến thương một bữa tiệc hội ngộ sau hai mươi năm chia cách
được bày ra. Chỉ có rượu mới làm cho con người ta xích lại gần nhau mà… nhờ vả.
Vũ – anh của Văn – bà má nói vậy, lý giải rằng Văn ra trước nên vai em. Tôi
ủa mà rằng sao ra trước lại là em? Bà giải thích ra sau lớn bởi nó có trước
trong bụng mẹ. Dân ta tính tuổi con cái từ lúc hoài thai chứ không phải lúc
nhìn thấy mặt trời. À ra thế – tôi gật gù – và cũng gọi Vũ bằng anh cho phải
phép. Sau đó đề nghị Vũ kể về ngoài ấy nghe chơi. Vũ lại làm bà má sa nước mắt
khi phải ra đời từ rất sớm để phụ với bà dì nuôi em. Sau một năm chia đôi đất
nước ông cha bước thêm bước nữa, không bước lấy ai chăm thằng con mới bốn tuổi?
Cực lắm. Khổ lắm bởi bà dì đẻ như gà. Nhưng cực khổ thì chịu riết phải quen,
chỉ có niềm đau không quen được. Đau gì? Vũ kể về nhưng trận mưa bom thả xuống
xứ Quảng Bình. Cả thị trấn biến mất sau một trận oanh tạc luôn chứ nhà tan cửa
nát nghĩa lý chi. Vũ nói nấm mộ của cha anh là mộ gió vì xác bị mất trong một
trận mưa bom… vân vân và vân vân. Nói chi cho hết hờn căm với đế quốc Mỹ và
nguỵ quyền sài gòn. Tôi nghe Vũ nhấn mạnh chữ nguỵ mà lạnh gáy.
Ông Hoàng – dượng của Văn, tất nhiên là của Vũ luôn – sau khi đưa Vũ đi khai
tạm trú liền qua nhà khoe với cha tôi rằng địa phương kính Vũ lắm. Một sĩ quan
và là đảng viên cộng sản thì quá có thớ. Ông dượng chủ động chơi đẹp khi nghe
Vũ nói về một miền quê đất cày lên sỏi đá, đông thiếu áo hè thiếu cơm:
– Bình Định nầy làm ăn cũng được. Chú với má của con cũng có được ba
sào ruộng… Nếu ngoài đó khó sống con cứ vào…
Sau bữa tiệc cha tôi nói:_
Ông Hoàng cũng mưu mô dữ.
Nhưng Văn nói với tôi:
– Ông dượng tao chỉ binh nhứt mà nó còn không bảo lãnh nói gì tao.
Thôi… cải tạo thì cải tạo… có ba giọt rượu vô nó nói nhiều câu tao đau lòng
quá.
– Nó nói gì?
– Nó nhìn thẳng vô mặt tao rồi nói rằng: “ Ông già đã chết vì bom Mỹ.
Tức là đồng đội của mày, đồng minh của mày đã giết ổng đó”. Nó nói vậy mày nghĩ
tao có nên nhờ vả không?
-Ôi dào – tôi bỉu môi – cải tạo thì cải tạo. Sợ đếch gì…
-Ừ…
Sở dĩ Văn đồng tình là vì trên uỷ ban đã yêu cầu nguỵ quân nguỵ quyền tập
trung để cải tạo ba ngày. Ba chục ngày còn pha chứ ba ngày nghĩa lý chi mà luỵ.
Đúng không? Riêng má tôi thì mừng chi xiết kể. Bà mô phật cả thôi cả hồi về một
đấng tối cao phù hộ. Má tôi rất cuồng ông Phật . Chả hiểu làm sao mà bà thuộc
lòng lòng những bài kinh bằng tiếng Phạn.Tôi nghe những hắt ra đát na đa ra
dạ da mà thất kinh hồn vía. Bà tin rằng tôi thoát khỏi lửa đạn cái mùa hè
’72, bình yên trong đận ’75 là nhờ vào từ bi của Phật. Gần nhà có một tịnh xá,
bà buộc tôi và bầy em đêm nào cũng đến để tham gia tụng niệm.Tôi đi được vài
hôm rồi giơ tay tạm biệt cửa tịnh xá khi phát giác có một sư, áo vàng đầu trọc
tay lần tràng hạt mà có… vợ. Cha tôi bảo:
-Lên chùa để tâm được tĩnh. Sư mà vậy thì ở nhà còn tự tại hơn.
Hôm ra nơi tập trung để lên đường cải tạo Văn được tách riêng. Tôi và ông
Hoàng chung một nơi học tập. Những ba tháng sau chúng tôi mới được phóng thích.
Về được một tháng thì ông Hoàng qua đời vì bệnh. Văn thì biệt mù những năm năm
sau mới hồi cố quận.
Vũ, sau khi lập gia đình. Không ở được với bà dì khó tính nên anh đưa vợ vào
ở với mẹ ruột. Với cái uy đảng viên sĩ quan quân đội ngay lập tức Vũ là thành
viên của chính quyền xã tôi cư ngụ. Vũ là người vận động gia đình giao ruộng và
tham gia hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên. Thiên hạ bảo rằng nhờ vào việc nầy
nên Vũ được cất nhắc lên chủ tịch xã. Văn về và chắc chắn đầy tâm sự khi trong
nhà có thêm người… dưng cùng máu. Nó dốc bầu với tôi:
-Chán quá. Tao không thể chung nhà với thằng này được rồi.
-Anh em cả mà. Có gì mà giận?
-Bực quá… tao mới trình diện xong là nó bảo tao làm đơn xin vô hợp tác xã nông
nghiệp.
-Thì ở đây ai không vậy. Cả nhà tao ai cũng xã viên.
Lợi dụng dáng vẻ ốm o gầy mòn như một thằng nghiện sau năm năm cải tạo Văn
cáo bệnh để không vào hợp tác. Vì việc nầy nên anh em Văn Vũ không thuận nhau.
Một chủ tịch xã hô hào bà con hợp tác mà người nhà không vào thì nói ai thèm
tin. Chủ tịch Vũ hay trò chuyện với ông ba phải là cha tôi lắm. Nghe chuyện cha
tôi gật gù:
-Để chú động viên nó vào.
Tôi cũng ba phải luôn cho rồi:
-Để tôi nói với nó. Ai đời anh cán bộ mà nó vậy thì mất quan điểm quá.
Và đời không đơn giản.
***
Cái gọi là huynh đệ tương tàn tưởng chỉ trong chiến tranh, ngờ đâu trong
thời bình cũng tương nhau đến tàn chứ không đùa. Cũng một ông đế quốc Mỹ mà ra
cả. Nghe Văn sẽ được hiệp chủng quốc rước đi theo dạng hát ô. Ba quân thiên hạ
nói vơi cha tôi:
-Con ông mà sĩ quan, năm năm cải tạo như thằng Văn thì bây giờ ngon hung.
Thật là… tái ông thất mã. Cuộc đời may mắn hay bất hạnh chả biết đâu mà luận.
Bà xã tôi cũng trầm trồ:
-Ông Văn chuyến này ngon lành rồi hả anh?
Tôi gật cho qua chuyện. Nghĩ đến ba tháng khai hoang phục hoá những cánh
đồng đầy lau sậy, rắn rết thời cải tạo tôi thất sắc. Văn những năm năm.
Năm năm đủ để một thuỷ quân lục chiến kiêu hùng hoá hèn. Và qua xứ cờ hoa với
thân phận một bại binh có lành được một tâm hồn đã vụn vỡ không? Vậy mà lắm kẻ
mơ ước được như Văn.
Chính cái khó về vật chất mà rất nhiều khi vợ tôi còn cáu kỉnh về những ly
rượu chồng cô hào phóng đãi bạn. Là nông dân tôi vẫn dăm ba ly giải phá cơn
sầu. Văn về, thấy nó ảm đạm quá nên tôi cụng ly với bạn cho vui. Khó khăn nên
vợ tôi cáu, cũng cảm thông cho cô. Bữa ăn cho bầy trẻ mì độn gạo mà bày đặt bạn
bè. Nghe Văn sẽ qua trời âu mỹ cô thay đổi ngay thái độ. Tôi hiểu lắm. Một
miếng, một ly bây giờ chính tôi còn mong một ngày mai bạn có nên thì đừng quên…
Nhưng Vũ thì khác. Anh không đồng tình khi Văn quyết định ra đi.
Vũ can ke lúc tôi và Văn tạc thù liền có mặt. Rất nhanh chóng cho ra một
khẩu chiến. Có hơi men Văn gằn giọng:
– Anh có mục đích của đời anh, tôi có cái của tôi. Tôi và anh là hai
con người. Ai có nghĩ suy nấy. Hiểu không?
– Mày không nói vậy được. Năm năm mày cải tạo không có tao mày nghĩ
cái nhà nầy ra gì không?
Văn cũng mày mi tau tớ:
– Mày vì mày chứ vì ai. Xưa kia chỉ một tiếng nói của mày chắc
chắn tao không có năm năm khổ như một con vật. Bây giờ sợ bị ảnh hưởng đến
quyền lợi chính trị nếu có một người thân chạy theo đế quốc chứ gì? Tao với mày
không cùng chung chiến tuyến. Chết cũng vậy.
Tuy chỉ vài câu nhưng lại là một cuộc chiến không khoan nhượng.
Và rồi Văn lên đường. Tôi chả biết bà Hoàng – mẹ của Văn và Vũ – vui hay
buồn khi con trai ra đi. Chuyện anh em bằng mặt nhưng không bằng lòng chắc bà
đau khổ lắm. Tội nghiệp bà quá. Anh em cùng một chỗ những chín tháng, ra đời
cách nhau có dăm phút mà xa nhau vạn dặm, tôi còn đau lòng nói chi bà. Nhưng
chuyện không ngừng lại ở đó.
Vài tháng sau khi Văn lên đường thì Vũ được đưa đi học. Nghe chuyện cha tôi
nói:
-Thằng Vũ chuyến nầy ao cái chủ tịch.
Quả nhiên sau mấy tháng Vũ về thì bàn giao chủ tịch, lên huyện làm phó cho
một ban ngành. Đang sai phái và ra lệnh, bây giờ bị ra lệnh. Vũ buồn. Đàn ông
xưa nay luôn dụng rượu để giải buồn. Và rượu muôn đời làm người ta hư hỏng. Vũ
điểm tâm sáng vài ly khi đi làm việc, chiều về có nhiều hơn tí chút để tìm giấc
ngủ muộn. Tôi rõ điều nầy bởi là bạn rượu của anh. Mọi thứ đều được tăng lên vì
cảm giác. Cái cảm giác quên hết sự đời khi lâng lâng đã vùi anh xuống hố. Vũ bị
kỷ luật sau rất nhiều kiểm điểm vì mất tư cách phẩm chất khi làm việc. Cuối
cùng bị tước cả đảng tịch.
Sự mát mát chức quyền đã làm Vũ bất đắc. Buồn hơn chắc chắn là niềm cô
độc. Một ông quan bị huyền chức nhận được ngay sự ghẻ lạnh của thần dân trước
đây từng tung hô và cúi đầu xu nịnh. Họ như không thấy Vũ trên dù gặp trên đường.Tiếng thì thào rằng còn thời cưỡi ngựa
bắn cung, hết thời cưỡi chó lấy dây thun bắn ruồi… tôi nghe mà đau đớn hộ
cho anh.
May quá cái thời gian. Nó vùn vụt, mọi sự rồi cũng hoá bình thường. Khổ đau
mất mát chi con người ta cũng chấp nhận được hết. Và nếu sự đời cứ thế mà trôi
cho đến ngày tận thế thì hay quá. Hay biết là bao nhiêu. Nhưng không hề là vậy.
***
Lần đầu tiên về thăm nhà sau năm năm tôi hỏi Văn:
-Ra sao rồi?
-Nói chung là ổn.
-Vợ con sao?
-Một vợ hai con. Bà xã tao qua Mỹ hồi 75.
-Giờ muốn gì nữa không?
-Muốn khi chết được chôn trên đất này.
-Bộ xứ cờ hoa không đất chôn hả?
-Tha phương nhớ nhà lắm.
Chắc là ăn nên làm ra lắm nên những đứa em của Văn khá lên trông thấy. Ngay
cả tôi đôi khi cũng được hưởng sái vài trăm đô Văn gửi về thân tặng. Và không
một lần nào về nước thăm quê hương Văn chung bàn với Vũ. Tôi hỏi Văn:
-Sao mà như nước với lửa vậy?
– Nó nói nó ra như hôm nay là bởi vì tao. Mày thấy vô lý không?
Tao vừa đến nhà thắp mấy cây nhang cho bà già thì nó đã lợi dụng rượu sách
nhiễu tao vụ bà già chết mà không về. Thật là bực mình.
Văn đi thì tôi tiếp tục rượu trà cùng Vũ. Cứ có ba ly vô là anh nói. Chủ yếu
về một thằng em sinh đôi và đổ mọi thất bại đời mình là do nó. Tôi yên lặng
lắng nghe và rất cảm thông cho anh. Nếu Văn không đi Mỹ ắt anh đã không bị loại
khỏi cuộc cờ quan chức. Thuở Văn đi thì cái gọi là xét lý lịch ba đời vẫn còn
mặn lắm trên đất nước nầy. Đã hơn một lần Vũ kể với tôi may mà cha và má ruột
của Vũ lấy nhau không hôn thơ hôn thú. Cái thời chống Mỹ ai có người thân theo
nguỵ thì chớ có mà hòng đảng hay sĩ quan. Nhưng Văn có tội chi trong cuộc thế
nầy? Tôi và Văn chung một đệ nhị, đậu hay rớt, lính hay tráng hai thằng tôi đâu
định được đời mình? Chao ôi… – tôi ngâm ngợi : Sao bao nhiêu năm tháng qua
không từ giã cuộc đời đi làm hoà thượng để những ngày tu đắc đạo sẽ làm búa xẻ
rừng làm sông chở gỗ củi đem về để ở sâu chùa mà làm lễ hoả thiêu? Sao lại sống
để buồn nôn khi nhìn cuộc đời mặc cả tình yêu và đến khi nhắm mắt xuôi tay còn
phảng phất u buồn trên mi mắt?(1)
Tôi. Sau khi bị vài nhát roi đời quất vô mặt nên nhủn như chi chi. Ai nói
chi cũng ậm ờ cho qua. Cũng chả chết ai. Thằng bị chửi ở tuốt bên Mỹ có
nghe được chi mà ý kiến. Về. Văn ở khách sạn, tạt qua thắp nén hương cho mẹ
không quá nửa tiếng đồng hồ. Cả hai chưa khi nào chung một bàn sau năm lần
trong ba mươi năm Văn rời xa quê hương. Đời tôi cũng có biết vài chuyện anh em
cạch mặt nhau.Thiên hạ giết nhau vì gia
tài là phần lớn nhưng anh em Vũ Văn là một thứ trái khoáy nhất trần ai. Tôi
nghĩ mãi vẫn không hiểu họ không nhìn nhau là bởi cái gì?
Nhưng thây kệ. Kẻ âu người á ba mươi năm mà thoáng qua được năm lần cũng
chẳng hề chi đến hoà bình thế giới.
Nhưng.
Lần thứ sáu Văn về thì sự cố xẩy ra.
***
Sự cố xấy ra bên ngoài cổng nhà nhưng cũng làm tôi đến mệt. Tôi phải khai đi
khai lại cả chục lần rằng Văn đến nhà tôi lúc tám giờ tối. Hai anh em có uống
vài ly và tâm sự. Mười giờ Văn về lại khách sạn. Tôi đưa bạn ra cổng bắt tay
tạm biệt rồi vô nhà. Nếu tôi đưa Văn ra đường thì chắc mọi chuyện đã khác. Thực
ra ba cái uýt ky chính hiệu Mỹ làm tôi say tỉnh là đà, già rồi, sáu mươi tuổi
mà cả năm ly rượu mạnh là quá lắm. Nếu không có tiếng cười lộng lộng trong hẻm
vắng ắt tôi đi một mạch về bến mê luôn quá.
Tôi tỉnh cả hồn lẫn xác khi Văn nằm bất động và trên tay Vũ là một lưỡi dao
nhọn hoắt. Anh ta đang cười. Sợ quá tôi cũng la làng lên. Bà xã và mấy đứa con
chạy ra. Bên nhà Vũ đủ mặt. Công an đến và Vũ bị bắt tai trận. Giết người mười
mươi luôn.
Nhưng tại sao? Công quyền hỏi. Tôi lắc đầu. Biết cái gì tôi chết liền.
Còn bạn? Bạn biết vì sao không?
Nguyễn Trí