Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em vẫn đợi mười thu em vẫn chờ.
Đây không phải là đèn Mỹ Tho hay đèn Sài
Gòn. Đây là những ngọn đèn trên đường phố Mã Lai.Những cô gái Việt sang tới Mã
Lai làm ăn thì người chồng ở nhà phải chờ “chín trăng” là chín tháng hay “mười
thu” là mười năm.Bài hát ca dao Nam Bộ đó, bây giờ được hát bởi những người chồng.
Từ cửa sổ khách sạn Nova Hotel trên đường
Jalan Alor, không cách xa tháp đôi nổi tiếng Twin Tower lắm của Kuala Lumpur,
buổi tối mở cánh cửa sổ ra, nếu bạn ngó về phía trái, thấy một con đường nhỏ với
một dẫy đèn lồng đỏ, treo trên những mái hiên. Những ngọn đèn đỏ này không to lắm,
có “ngọn tỏ ngọn lu” thỉnh thoảng có cả một ngọn không được thắp hay thắp mà
không sáng.
Nơi đó họ gọi là Phố Đèn Đỏ. Cái tên nghe
thật dung dị. Thắp đèn đỏ thì gọi là phố đèn đỏ vừa gợi hình vừa dễ nhớ. Thật
ra cái tên Phố Đèn Đỏ có tiểu sử của nó tùy từng quốc gia, nhưng nói chung đó
là tên gọi của chốn ăn chơi của các ông trên thế giới.
Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở
Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố
phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt
ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng
tôi ngụ.
Khu đèn đỏ là khu “Bán phấn Buôn Hương.”
Hương gái Việt và Phấn gái Việt được biết, ở thời điểm này chiếm 80%.
Con phố Jalan Alor có chợ đêm “Night
Market.” Sinh hoạt chính từ 4 giờ chiều cho tới 5, 6 giờ sáng hôm sau. Chợ đêm
chủ yếu là thức ăn. Ở đây ngoài bếp Mã, có bếp Tàu và bếp Việt. Tìm nước mía,
nước dừa, ngô (bắp) hấp, khoai luộc rất dễ dàng. Trái cây Mã rất gần gũi với Việt
Nam: Chôm chôm, măng cụt, soài, nhãn mùa này đầy chợ. Có Quán ăn Việt, người Việt
làm chủ. Du khách đủ mọi lớp tới. Có người đi du lịch với vợ, với gia đình.
Cũng có những thương gia trên đường giao hàng, trên đường ký hợp đồng tới đây
ăn xong thì ở lại qua đêm đi mua hương mua phấn.
Những cô gái Việt bán hương phấn ở đây nhiều
lắm, họ còn khá trẻ. Tuổi từ mười tám cho tới ba mươi. Họ là những món hàng đẹp
và ngon trong chợ đêm này.
Tài xế taxi Mã gặp khách đàn ông đi một
mình. Bất cứ người khách đó mang quốc tịch gì, màu da gì, cũng được hỏi một câu
rất giản dị:
·
Do you want Vietnamese pretty girls?
Chữ Vietnamese được nhấn mạnh trong câu hỏi.
Tại sao gái Việt ở đây nhiều thế, họ tới
đây bằng cách nào? Có thể là họ đi theo diện “Xuất Khẩu Lao Động” chính thức
hay họ bị mua chuộc, bị lừa, hoặc tự nguyện sang Mã làm gái bán vui, mua buồn.
Đi bằng cách nào thì tất cả đều vì lý do kinh tế.
Họ là những phụ nữ rất đáng thương.
Một buổi sáng, tôi tình cờ được ngồi ăn
cùng bàn với mấy cô trong một quán ăn của người Việt. Ngồi một lúc, cung cách của
các cô mang thuốc lá ra hút, gọi cà phê, thức ăn, cho tôi biết các cô làm gì ở
đất nước này. Tôi bắt chuyện làm quen, các cô vui vẻ tâm sự.
Một cô khoảng trên dưới ba mươi, người miền
Nam. Cô nói cô ở Kiên Giang đến.
·
Kiên Giang bây giờ đẹp lắm! cô khoe.
Rồi cô tâm sự. Em với chồng bỏ nhau, con
gái lớn đang học Trung Học, thằng nhỏ bảy tuổi bệnh, em không có tiền chạy thuốc,
nó chết. Em buồn quá, có người rủ đi xa kiếm tiền thì đi. Đi theo diện du lịch,
rồi ở lậu luôn.
·
Nếu bị hỏi giấy tờ thì sao?
·
Không sao cả cô ơi! Ở đây dễ lắm, có tiền cho tụi lính (công an) là xong hết.
Có tiền em gửi về nuôi má, nuôi con ăn học.
Cô khác nói: cô ơi, ở đây tụi em làm gái sợ
lính Mã lắm, nó cho vào tù bất cứ lúc nào. Mình ở lậu, làm việc này phải sợ tất
cả mọi người. Phải có tiền thuê “Bảo Vệ” nữa. Bị khách hành hung hay không trả
tiền thì gọi Bảo Vệ can thiệp. Vào tù cũng gọi Bảo Vệ chuộc ra. Tiền chuộc cộng
tiền nộp cho Bảo Vệ thành một số nợ to. Mình phải làm để trả món nợ đó trước
khi có tiền gửi về nhà. Tụi em mỗi đứa một cảnh cô ơi.
Cô khác kể: Ở Bắc em trồng trà trên Thái
Nguyên, sáng nắng, chiều mưa, vất vả lắm, cũng chẳng được bao nhiêu, nhà lúc
nào cũng nợ. Thấy bạn em rủ sang Mã Lai kiếm tiền dễ hơn, nói làm massage, hát
Karaoke khá lắm. Người ta ứng trước cho cả ngàn đồng Mỹ, làm giấy tờ cho mình hết,
chỉ việc đi sang làm trừ dần. Sang đến nơi mới hay mình nợ người ta cả tiền ứng
trước, tiền vé máy bay, tiền giấy tờ, một con số to lắm. Khó lòng mà trả được
món nợ này. Giấy tờ người ta giữ hết, mình không nói được tiếng của nước này.
Thế là họ bảo sao phải nghe vậy nếu không muốn vào tù.
Cô chưa nói hết câu đã nước mắt ngắn, dài.
Một cô khác kể chuyện của nhau:
Chúng em, có người xuất cảng lao động, cực
quá không làm nổi, hay đang làm thì hết việc.Về lại quê nhà thì tiền vay nợ để
đi chưa trả được bao nhiêu. Chồng có khi đang thất nghiệp hoặc ốm đau. Thôi anh
để em ở lại làm thêm đôi năm nữa. Anh đâu có biết đích xác em làm việc gì. “Ngậm
bồ hòn làm ngọt” cô ơi! (Chữ ngậm Bồ Hòn này chỉ có người Bắc mới biết.)
Một cô khoảng ba mươi, có cặp mắt rất buồn.
Cô ơi, làm hoài cũng quen, nếu mình biết tự
đề phòng cho không nhiễm bệnh và biết nghe lời thì dễ sống hơn. Số phần mà cô,
phải chấp nhận để sống. Chắc cỡ tuổi tụi em cũng chỉ làm được vài năm nữa. Nếu
có phe đảng thì lên làm chủ, rồi mình lại “lừa” người sang sau. Nếu không thì
mang cái thân tàn về quê. Không tính trước được cô ơi. Chúng em phó mặc cho phần
số. Giọng miền Trung của cô, ngập ngừng, dịu dàng, nghe mà mủi lòng.
Có cô thú nhận. Tụi em yếu đuối chứ có chị
rất cứng cỏi, biết bị lừa tìm mọi cách để thoát. Chạy vào tòa Đại Sứ tố cáo,
hay chạy vào sở công an Mã, đôi khi cũng thoát được cô ạ. Thật ra các chị có chồng
tốt ở nhà chờ, chỉ vì nghèo muốn ra nước ngoài lao động, nay bị lừa nên nhất định
về. Còn như chúng em, ai có chồng ở nhà cờ bạc, nghiện hút, hay đánh đập vợ con
thì đâu còn muốn về nữa. Mà chồng mình đôi khi cũng chẳng cần biết mình làm gì,
miễn cứ gửi tiền về là được. Buồn lắm cô ơi!
Cô ăn đi chứ, sao cô cứ nhìn cái ang cá kèo
vậy?
Cái ang cá kèo lạ lắm. Cả trăm con cứ nhảy tung lên như là khiêu vũ, bắn cả ra
ngoài ang. Mươi phút sau chúng nằm xếp lớp lên nhau, rất ngoan ngoãn và thứ tự.
Tất cả cái đầu nghiêng về một phía như có người cầm đũa xếp những con cá trong
một cái nồi để kho. Những con cá này được mang sang từ Việt Nam. Người chủ quán
bảo gây mê cho nó ngủ mấy tiếng, bỏ vào thùng xốp gửi máy bay qua đây. Sang tới
nơi chúng sẽ tỉnh dậy. Từ Việt Nam sang Mã Lai có hai tiếng bay mà.
Trên một khía cạnh nào đó, những cô gái Việt
có phải đã sang Mã Lai bằng cách đi của những con cá kèo này không?
Cá kèo ở Việt Nam được xếp vào dạng cá rẻ
tiền, cá của dân quê nghèo khó ăn thường ngày.
Cá kèo là hạng chót nên đi xem hát mà mua
vé rẻ tiền người ta cũng gọi là ngồi ở hạng “cá kèo”.
Hôm sau tôi được một anh bạn kể cho nghe
chuyện “Đi Biển” tối hôm trước. Anh ở trong nhóm của chúng tôi, anh dắt cả mấy
cô cháu, cả một linh mục khá trẻ, vào đó “tham quan cho biết sự tình” thôi.
Đó là một nhà hàng đêm có tên là Beach Club
(Họ gọi tắt là đi Biển), ở không xa khu chợ đêm. Nơi đây mỗi người vào phải mua
một chai nước ngọt hay bia giá khoảng 400 tiền Mã (gần 10 Mỹ Kim). Vào trong Biển
tối om đó có cả hàng chục cô gái Việt tuổi mười tám, đôi mươi, chạy ra vây
chung quanh mình.
Khách và các cô muốn tính với nhau thế nào
thì tính, miễn là nộp tiền cho chủ theo đúng luật đã quy định. Ở nơi này, các
cô còn xuân trẻ có thể kiếm một đêm từ một đến hai trăm Mỹ kim.
Các cô sẽ lôi kéo, vuốt ve, khách không trốn
vào đâu được (thật ra đã vào đấy thì có ông nào không muốn bị bắt). Nhưng đây
là nhóm của chú cháu anh nên họ chỉ đứng chụm vào nhau nói chuyện và quan sát.
Nghe anh nói chuyện với linh mục cứ Cha Cha, Con Con. Một cô khẽ lên tiếng:
·
Con muốn được xưng tội.
Tôi ngắt lời, hỏi: Thế Cha có giải tội cho
cô ấy không? Anh bạn nói, không, Cha sợ bị phục kích.
Tự nhiên tôi thấy thương quá! Nếu thật tình
cô ấy muốn xưng tội thì sao? Có lẽ cô là người Công Giáo, bao lâu nay không hề
tới nhà thờ vì nghĩ mình tội lỗi.
Tôi tin cô có thể cầu xin tha thứ thẳng với
Chúa. Chúa nhân từ vô cùng, Chúa hiểu hoàn cảnh của cô hơn bất cứ ai.
Trong một buổi tối khác, quán ăn khác, chủ
cũng là một phụ nữ người Việt, khoảng bốn mươi tuổi. Phụ bếp, chạy bàn có nam,
có nữ, toàn người Việt. Một cô trông rất trẻ, đang ngồi chẻ rau muống làm gỏi
cho khách. Tôi hỏi chuyện làm quen mọi người, cô chủ cho biết ở đây đã chín
năm, chồng là người Hoa. Cô phụ bếp mới sang được một tháng. Đi diện du lịch rồi
sẽ ở luôn. Cô chủ nói, em chỉ cần đút tiền cho lính Mã là cái gì cũng xong cô ạ.
Tôi đợi lúc cô phụ bếp mang thức ăn cho
tôi, tôi hỏi: Con có gia đình chưa? Ở thành phố nào?
- Dạ có rồi, con ở Huế, con có hai đứa con
nhỏ. Cô ngập ngừng một chút nói thêm: Nghèo quá cô ạ, mà luôn luôn không có việc
làm. Cả hai vợ chồng cùng thất nghiệp hoài. Con giao con cho nhà chồng, sang
đây làm để có tiền gửi về.
Tôi nhìn kỹ cô thêm một chút, thấy cô người
mảnh mai, có chút nhan sắc, tôi chạnh lòng nói khẽ.
·
Cô biết con làm ở đây vất vả, từ 4 giờ chiều tới 5, 6 giờ sáng. Nhưng nếu ai rủ
con đi làm việc gì nhàn hơn, nhiều tiền hơn, con đừng có nghe. Con hiểu cô nói
gì không?
Cô gái nhìn tôi với cặp mắt bối rối, cô hạ
mi mắt thấp xuống một chút, cô cũng trả lời rất khẽ
·
Dạ, con hiểu, con cám ơn cô.
Tôi thấy lòng mình nao nao. Chẳng phải bà
con thân thích gì sao bỗng thấy thương như thương con, cháu mình.
Hoàn cảnh của những cô gái mang hộ chiếu Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cô đến từ đâu? Huế, Hà Nội, Kiên Giang, Mỹ Tho,
Cà Mau hay Ninh Bình, Lạng Sơn, Nam Định, các cô đều là những con cá kèo bị
(hay tự chọn) gây mê bỏ vào thùng xốp mang đi.
Những ngọn đèn lồng đỏ, ngọn tỏ ngọn lu đó
còn treo tới bao giờ.
Trần
Mộng Tú
(nguồn: tranmongtu.blogspot.com)