02 May 2017

TRẬN ĐÁNH - Phan Ni Tấn

Từ ngày ra trường dưới hình thù một người lính tác chiến, hầu như trung úy Tiên có mặt nơi địa đầu giới tuyến nhiều hơn là ở thành phố.

Trung úy Cái Mộng Tiên vẫn nhớ hoài trong suốt mười năm chiến đấu ngoài mặt trận, từ trên rừng xuống đồng bằng, ngực mang đầy huân chương đủ loại, nhưng thân thể thì rách nát, sẹo sọ, thương tích dọc ngang.  Những cảnh chém giết điên dại, tiếng gào thét man rợ, tiếng máu chảy làm méo sệch cả thể xác lẫn tâm hồn. Nhiều lần cận chiến, báng súng và lưỡi lê giúp người thành thú hiếu sát, bạo liệt, hung tàn, thẳng tay hủy diệt nhau, đâm vào nhau bằng một loại chiến tranh ý thức hệ sắc lẻm, lạnh ngắt. Nhiều đêm nằm mơ  anh thấy mình là một dòng sông trôi đi, trôi xa mãi, trôi ra ngoài cuộc đời mình. Từng khoảnh khắc, từng sự kiện, từng kỷ niệm trong suốt những năm dài chiến đấu đã nhào nặn anh thành thần tử và những đồng đội mà số phận và gương mặt của họ hình như không còn ai nhớ.
Ngày tháng vẫn trôi đi, trung úy Tiên trải qua hết mặt trận này đến mặt trận khác, trong khi nhiều người ngã xuống anh vẫn bật dậy lao tới. Năm 1970, sau 42 ngày tham dự khóa huấn luyện sình lầy tại trung tâm Dục Mỹ, trung úy Tiên bay lên Pleiku trở lại Quân Đoàn II trình diện chờ nhận nhiệm vụ mới.

Thành phố Pleiku, sau nhiều năm xa cách đã mau chóng phát triển, dù chiến cuộc đang trên đà leo thang. Nhìn đâu anh cũng ngửi thấy không khí và màu sắc chiến tranh. Xe nhà binh, súng đạn, những người lính ngược xuôi trên các ngã đường.
Vừa đặt chân tới Pleiku trung úy Tiên nhớ ngay rạp hát Diệp Kính vẫn mang một bộ mặt cũ kỹ, buồn bã, rêu phong theo tuế nguyệt. Dọc theo đường Hoàng Diệu chạy dài về hướng Tây có vài đoạn dốc, anh nhận ra khu chợ mới anh ở xưa kia giờ đây nhà cửa dân cư đông đúc hơn. Bến xe vẫn trải đá, vẫn lầy lội vào mùa mưa và rác rưởi. Căn nhà thầu thực phẩm của cô Tư nay đã đổi chủ, cất lên  bốn từng lầu rộng rãi, bề thế hơn. Hàng xóm ngày xưa không biết có còn đó hay đã dọn đi biệt dạng.
Ở Pleiku được hai hôm, trung úy Tiên cầm sự vụ lệnh theo xe quân vụ đi thẳng ra đơn vị đồn trú ở Plei Buk. Plei Buk là mảnh đất phía cực Tây của tỉnh Pleiku. Anh đến đó một ngày tháng tư 1970. Cái tháng tư ở tiền đồn Plei Buk gió từ đồi núi chung quanh cứ thổi sàn sạt trên mặt đất nâu bầm, tơi tả vì vết tích chiến tranh.
Cái cảm giác đầu tiên của anh khi đặt chân lên mảnh đất biên giới này là một cảm giác nhức nhối. Ngoài vọng gác lô cốt nhô lên để quan sát địa thế và tình hình chung quanh, toàn bộ phận cơ hữu đều nằm chìm dưới lòng đất trên một ngọn đồi trọc thoai thoải về hướng Tây Bắc. Phía ngoài công sự, hàng rào kẽm gai và concertina được giăng đầy.
Chính cái tiền đồn đèo heo hút gió này, năm 1965 chỉ trong một đêm đã bị Việt Cộng úp đồn. Vì có nội tuyến nên địch quân nắm rất rõ tình hình và địa thế bên trong; chỉ trong một đêm trời mưa rả rích chúng đã đánh phá thật dữ dội, tàn bạo, ác liệt đến cùng. Tất cả từ vị chỉ huy đến binh sĩ các cấp trên dưới bốn chục tay súng đều bị tàn sát. Từ đó, đồn trở nên hoang phế như mộ địa. Ngót hai năm sau, công binh Mỹ mới trở lại, dùng hàng trăm tấn thuốc nổ phá lòng đồi, đào hầm dựng bộ chỉ huy mới và bổ sung quân số. Năm năm sau, chân anh mới dẫm lên vùng đất chiến lược bầm dập, lở lói và nghiệt ngã này. Cái vùng đất u lên như một vết thương đã nhiều lần bị xới tung be bét ngổn ngang vì đạn pháo kích, vì những đợt tấn công của quân thù, kể cả bên ta gọi pháo binh dập. Dưới chân đồi mờ xa, con sông Sésan vốn hùng vĩ và mạnh mẽ, cuồn cuộn chảy giữa hai bờ rậm rạp những rừng gộp, dầu, sao, gõ, có cả cẩm lai cổ thụ, đại ngàn.
Bây giờ trung úy Tiên đứng giữa hiu quạnh đất trời, thở hít cái không khí nồng cháy mùi đất và mùi cỏ cây khô héo dưới vầng dương thiêu đốt để nhận ra cái gian khổ, hiểm nguy, đầy bất trắc sống còn đang rình rập phía trước. Trong cái không khí ấy, nơi địa đầu giới tuyến này bất ngờ đến kinh ngạc anh gặp lại người bạn cố tri thất lạc đã nhiều năm.
Vừa dưới miệng hầm ngoi lên, đang lui cui phủi bụi trung út Tiên giật mình nghe có tiếng người thảng thốt gọi:  – Tiên! Tiên phải không?, rồi ú ớ, lập cập: Ê! ê… Trung úy… Tiên!
Trời đất! Ở cái cõi khô cằn nghiệt ngã sống nay chết mai này mà cũng có người nhận ra mình thì kinh ngạc hết biết. Tay che mặt trời, trung út Tiên nheo mắt định thần nhìn kỹ thì trời phật ơi rõ ràng là… ông thầy võ của anh: Bảy Nẫu!
Đúng là Bảy Nẫu “đơ-dèm cùi bắp”, độc thân kinh niên nay là Hạ sĩ nhất trinh sát của đại đội: cao, gầy, rắn rỏi, da sạm nắng, tóc lơ thơ vài sợi bạc. Tất nhiên, trong buổi tri ngộ không thể thiếu cuộc nhậu cố tri: nguyên can rượu đế 20 lít, chục con khô cá sặc rằn được anh em binh sĩ săng sái mang ra đãi đằng. Phải rồi. Những người lính vô danh sống và chiến đấu trên ngọn đồi ma quỷ này hầu hết đều trẻ, khoẻ, phong trần, chịu chơi, đánh nhau nhất định là dũng mãnh, gan lì.
Ngồi bên cạnh trung úy Tiên dưới hầm, trong căn phòng nhỏ, khiêm tốn gọi là câu lạc bộ, anh nhận ra Bảy Nẫu dù đã hơn 50 tuổi vẫn còn rắn rỏi, khoẻ mạnh và nhanh nhẹn. Bản tính con nhà võ trước sau vẫn ào ạt, liều lĩnh, chai lì, bạt mạng. Sau này, trong những lần hành quân, những cuộc dọ thám, những pha đụng độ, những trận đánh, sự sống còn từng trải càng in đậm những nếp nhăn trên gương mặt rạm nắng, dãi dầu của anh.
***
Nhưng mà… Ở đời đố ai học được chữ ngờ. Như gặp lại Bảy Nẫu, thầy dạy võ của trung úy Tiên năm xưa giữa ngọn đồi tử thần này đúng là một bất ngờ. Rồi cũng chính Bảy Nẫu, lính của anh sau này đã ngã gục trước mắt anh cũng là cái hết sức bất ngờ đến thương tâm.
Mùa mưa năm 1972, trong một trận đánh khốc liệt ở quận Lệ Trung, kẹp giữa Pleiku – Kontum, hạ sĩ nhất Bảy bị một viên đạn Aka cắm ngay giữa lồng ngực. Từng trải đến thế, nhanh nhẹn đến thế, mạnh mẽ đến thế, vẫn thua một viên đạn đồng vô tri, không có mắt.
Tờ mờ sáng, nhận được tin trinh sát báo địch càn vào thôn A, mục đích lùa dân làm bia đỡ đạn. Địch rất đông, hỏa lực mạnh. Cỡ tiểu đoàn. Dưới làn mưa, trung úy Tiên dẫn một cánh quân men theo đường rừng tiến vào thôn A. Từ xa, cánh Tây Bắc của đại úy Hổ đã chạm địch, nghe nhiều tiếng lựu đạn, M79 lẫn tràng súng của hai bên nổ giòn. Trung úy Tiên ra lệnh cho anh em chia thành ba mũi giáp công, vừa nhử mũi chính diện vừa thọc hai bên sườn tiến thẳng vào thôn. Xe tăng bò vào, bộ binh trườn vô. Hai bên đánh một trận kịch liệt ở bìa rừng, ở từng mô đất, bụi cây. Địch tràn vào thì ta chận lại, đánh bật chúng ra. Lúc co, lúc giãn, lúc xáp- lá- cà. Đánh cận chiến là thế thượng phong của hạ sĩ nhất Bảy. Gặp địch trước mặt, cứ thế gầm lên dẫn đồng đội lao tới bắn sát rạt, thọc lưỡi lê, dọng báng súng, và Bảy Nẫu còn dùng cả bàn tay sắt chém thẳng vào mặt vào cổ quân thù. Võ sư mà. Trận đó, kéo dài hơn một tuần, bên ta diệt được hai T54 và hàng trăm tên. Tất nhiên vì ác liệt bên ta cũng hy sinh không ít, trong đó có hạ sĩ nhất Bảy, tức Bảy Nẫu.
Tảng sáng ngày thứ năm, thấy phe ta bị tổn thất khá nặng, nhất là thấy trung úy Tiên vừa vượt tới đầu cầu đã bị đạn bắn xướt mảng da cổ, may mắn máu không chảy nhiều, chỉ ri rỉ nhưng cũng đủ làm hạ sĩ nhất Bảy nóng ruột. Tiếng đại liên của địch vẫn khạc liên tiếp về phía ta.
Đang được anh y tá băng bó vết thương, chợt nghe thấy Bảy Nẫu gầm lên, tay cầm lựu đạn phóng tới. trung úy Tiên hốt hoảng chồm dậy la lên: “Anh Bảy! Bảy, trở lại ngay!” nhưng Bảy không nghe, vẫn khom người lao về hướng mô đất cao phía trước. Biết không cản được lòng sôi sục của Bảy, trung úy Tiên vội ra lệnh cho anh em theo sau xử dụng tối đa hỏa lực bắn yểm trợ Bảy Nẫu.
Trước mắt anh, hạ sĩ nhất Bảy vừa bám vào mô đất cao đã nhanh nhẹn ném liên tiếp bốn quả lựu đạn về phía địch. Mặc dù không nhìn thấy nhưng ai cũng nghe rất rõ tiếng gọi nhau ơi ới lẫn những tiếng rên rỉ đau đớn của Cộng quân. Hăng máu, hạ sĩ nhất Bảy lao mình tới đứng dậy ném tiếp quả lựu đạn thứ năm thì bất ngờ từ cánh rừng bên trái tiếng đạn đại liên bay chiu chíu qua đầu, vừa kịp thấy Bảy Nẫu bật ngửa.
Trước đó chỉ mới một phút thôi, thân hình con nhà võ vốn dẻo dai, chắc nịch, cứng như thép nguội trong tích tắc đã giãn ra, rũ xuống, vô hồn. Từ trên mô đất cao, cái đầu của Bảy Nẫu trượt xuống trước, kéo theo tấm thân oặt ẹo như một loại động vật không xương, mềm nhũn trượt dần xuống theo triền dốc của mô đất. Máu theo tử thi trôi xuống vẽ nên một vệt dài ngoằn ngoèo chảy đỏ bầm cả mặt đất. Mặt ngửa lên trời. Mắt mở trừng. Lồng ngực vỡ toang, nhầy nhụa những gân, xương và thịt. Cạnh cái xác là sợi dây ba chạc vẫn còn dính lại chùm lựu đạn.
Một người lăn lộn, chai sạn như Bảy Nẫu ngã xuống khiến đồng đội trở nên nao núng, trung úy Tiên cũng sững lại bên bờ tre, ngơ ngác. Lúc đó mặt trận trở nên yên tĩnh lạ lùng. Không cắt nghĩa nỗi sự im lặng của chết chóc, người ta chỉ còn nghe tiếng côn trùng rên rỉ, như than van, như ai oán.

Phan Ni Tấn