Ở thế kỷ 20, hai cuộc chiến tranh Việt Nam quá dài, từ 1945 đến
1975. Vậy những ai được sinh ra trong thời-gian bắt đầu hiện-diện vào
đời năm 1920 và năm 1950 (xin lấy hai con sổ chẵn này cho dễ phân-biệt
khi cuộc chiến tranh đầu kết-thúc năm 1954 và cuộc chiến thứ hai kết
thúc năm 1975), thì những người đó đều đã ở vào tuổi 24 và 25, có
nghĩa là họ đã hoàn toàn nằm trong cuộc chiến, đã hoàn toàn trưởng
thành trong cuộc chiến, dù họ chiến sĩ hay thường dân thì cũng đều
chung mang thế hệ khói lửa ngút trời. Nếu họ đã từng sáng tác thơ
văn thì thế nào cũng lưu dấu vết chiến tranh, cho dù với chủ-trương
vị-nghệ-thuật hay thuần-túy thơ tình. Ví dụ bài thơ “Núi Đôi” của
Vũ Cao làm trong cuộc chiến 1945-1954 và bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài
Trên Áo Tím” của Kiên Giang trong cuộc chiến 1954-1975, đều là thơ tình
nhưng giống nhau ở chi-tiết một trong hai người trong cuộc đều chết vì
chiến tranh; một người thì chết vì là nữ du kích (trong thơ Vũ Cao );
còn người nam (trong thơ Kiên Giang) chết vì cố-thủ phòng-tuyến tại
một nhà thờ; và nàng hay tin, dù đã có chồng, đến cài hoa trắng
trên áo quan người chiến sĩ, cũng là người trước đây rất yêu nàng.
Theo như trong sách biên-khảo “Thơ và Nguồn Thơ” (từ trang 225 đến trang
237) của tác-giả Trần Ngọc Hưởng, do “Nhà xuất bản Tổng Hợp Đồng
Nai” ấn hành năm 2004: Kiên Giang đã sửa lại bài thơ “Hoa Trắng Thôi
Cài Trên Ảo Tím” thành phiên-bản thứ hai. Trong phiên bản thứ hai này
thì người nữ mất khi lên xe hoa ba năm sau, vì lý do nào đó có lẽ do
bệnh tật, và cũng loại hoa trắng ngày trước cài trên áo tím mà nay
người ta cài trên áo quan của nàng. Phiên bản thứ hai ấy đã phổ
thành ca-khúc được ưa chuộng trước năm 1975. Hai ví dụ trên xen kẽ
tình và thời cuộc, nêu ra làm điển-hình mà thôi, vì còn thật nhiều
thơ văn xuất sắc của “hai thế-hệ khói lửa ngút trời” sáng tác cùng
khuynh hướng chung mang này. Riêng những nhà thơ văn trực tiếp tham dự
hành quân tác chiến thì thơ văn của họ dĩ nhiên nặng phần chiến sự,
hoặc mang tính chiến đấu hoặc mang tính phản chiến, trong đó tình
đồng đội phong phú; tình trai gái đôi khi hiện diện đôi khi không có
mặt. Ví dụ trong tác phẩm văn xuôi “Tháng Ba Gãy Súng” của Cao Xuân
Huy, tình đồng đội ở khắp nơi trong các trang sách, những khuôn mặt
phụ nữ chỉ được nhắc nhở trong vài lần.
Người viết bài này sinh năm 1939, kể như ở vào tuổi thiếu-niên
trong cuộc chiến 1945-1954, vì vậy cũng đã có thấy vài dấu vết
chiến tranh thời Đệ Nhị Thế Chiến giữa Nhật và Mỹ Pháp tại Đông
Dương; hoặc đã chứng kiến vài chiến-sự nhỏ giữa Việt-Minh và Pháp.
Vài dấu vểt chiến tranh thời Đệ Nhị Thế Chiến như đèn pha của tàu
chiến Nhật trên sông Cửu Long soi thành những luồng xanh chiếu lên bầu
trời (từ Bến Tre nhìn qua Mỹ Tho), đồng thời còi báo động hú lên,
khi có máy bay Mỹ vào không phận. Rồi lúc theo mẹ ra Nha Trang, qua
các nhà ga Mường Mán, ga Tháp Chàm, ga Nha Trang, tôi đều thấy tường
vách và mái những “Dépot xe lửa” (nơi sửa chửa đầu máy và toa tàu),
tất cả được sơn ngoằn ngoèn màu cỏ cây (như vải lính Nhảy Dù) cốt
ngụy trang đánh lừa trinh sát của máy bay Mỹ (chứng tỏ thời ấy máy
bay Mỹ cũng chưa trang bị radar tinh vi hay dụng-cụ điện-tử tối tân).
Và những hố bom Mỹ dọc dài đường xe lửa Xuyên Việt. Lại thấy ven bờ
biển Cà Ná gần Phan Rang có vài tàu Nhật bị đánh chìm chưa được
trục vớt, giơ lên nhấp nhô những ống khói tàu… Đến thời kỳ Việt Minh
chống Pháp, khoảng năm 1949, tôi trú ngụ tại thành phố Nha Trang, sát
bên nhà là một Nhà Xác thuộc khu Bệnh Viện lớn của Pháp (bệnh viện
này về sau, thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã là nơi cố-thủ
chống tham nhũng của Bác sĩ Hà Thúc Nhơn; kết-thúc với cái chết
của ông khi quân đội tấn công vào). Cha kế của tôi là công chức cấp
cao của Sở Hỏa Xa nên được trú ngụ ở một biệt thự xây kiểu Pháp,
nhưng quá riêng biệt vắng vẻ, lại ở kế bên Nhà Xác Bệnh Viện. Thỉnh
thoảng thấy có quan tài lính commando hoặc lính Lê-dương phủ cờ Pháp,
lúc ấy nhà xác bật đèn nhỏ vàng mờ trước cửa, và có lính Pháp
luân phiên đứng gác… Trước nhà là một bãi rộng đất pha cát, chỉ mọc
nhiều những bụi cây hoang lùn thấp gọi là cây ma-dương, trái nhỏ khi
chín cũng ăn được, nhưng chỉ để cho lũ trẻ ăn chơi mà thôi. Bãi đất
rộng ẩy rất lâu về sau (không biết năm nào) là nơi tọa lạc Trường
Trung Học Võ Tánh Nha Trang, tuy vậy vẫn còn rộng thênh thang (và bây
giờ thì không biết nơi đây còn trống trải hay không)… Ngày nọ, chắc
trong năm 1949, một chiến-hạm Pháp đậu gần bờ bị cán bộ Việt Minh
giả dạng công nhân đặt bom phá nổ dữ dội. Lính thủy Pháp chết rất
nhiều, và quan tài của họ đặt khắp nơi trong và ngoài nhà xác ở
gần nhà như đã nói ở trên. Dấu vết chiến tranh thời tôi mới 9 hay 10
tuổi khi ấy, đã có lưu dấu trong thơ (nhưng thơ này chỉ là sáng tác
hồi-tưởng):
HAI SẮC MÀU ĐỒNG HIỆN
Ðâu khoảng năm bốn chin
Tôi đến ở Nha Trang
Trước nhà, bãi hoang vắng
Bệnh viện, cùng dãy ngang.
Mùa tuổi thơ bắt dế
Theo tiếng gáy vệ đường
Rồi rảo khắp bờ bụi
Tìm hái trái ma-dương.
Cuối đường vui, thoáng hiện
Khu nhà xác chơ vơ
Những khi quàn tử sĩ
Mới có bóng điện mờ.
Commando tử trận
Từ đâu những chiến trường
Người lính Pháp đứng gác
Thật buồn, những đêm sương.
Nhắc đây, đâu nào kể
Phản chiến hay chiến công
Mà chỉ vì tâm trí
Thường nhớ những bất đồng.
Tuổi thơ, màu trong sáng
Nhớ cùng bạn vui chơi
Lại ám ảnh bệnh viện
Người lính trận bỏ đời.
Hai sắc màu cùng hiện
Khi nhớ lại điều gì
Nền trời càng xa rộng
Càng đủ nét khắc ghi.
(City of Walnut, California, sáng tác trong tháng 10.2011)
Nói riêng về chiến sự Miền Nam Việt Nam trước 1975 mà người viết
bài này đã có trong cuộc, ở vào lứa tuổi quân-dịch, nên biết được
một số quy định thuộc về động-viên vào quân-đội dành cho giáo-chức.
Những biệt lệ thuộc các ngành khác thì người viết không rành lắm;
như biệt-lệ gia-đình chỉ có một đứa con thì hoãn-dịch trong bao lâu;
như người có khuyết tật thì ở mức độ nào mới không bị động viên;
như người đang làm việc hành-chánh thì có quy-chế ra sao… Vậy khá
rành về giáo-chức thì như sau: Ngay sau Tết Mậu Thân 1968, giáo-chức
phải đi thụ-huấn 9 tuần lễ quân-sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung ở gần Sài Gòn. Khóa đầu tiên huấn luyện quân sự cho
nam-giáo-chức này rất đông đảo, vì bao nhiêu người đang hành nghề dạy
học trong hạn tuổi quân-dịch được dồn vào cùng một đợt. Và đợt này
sau 9 tuần thì về lại nhiệm sở, được gọi là Giáo-chức Biệt-phái.
Những đợt huấn luyện giáo-chức càng về sau càng được điều-chỉnh
lại từ Bộ Quốc Phòng, từ từ càng khó khăn do tình hình chiến sự
khốc liệt. Hoặc phải được huấn luyện quân sự trong một thời-gian dài
ở tại Trung Tâm Huấn Luyện Thủ Đức để trở thành Chuẩn Úy, rồi cũng
được biệt phái về dạy học (như nhà thơ Nguyên Sa, ông khá lớn tuổi
mà đi huấn luyện quân sự đợt sau chẳc là do đang làm Hiệu Trưởng một
trường Trung Học Tư Thục?). Hoặc những đợt sau nữa thì phải đi
tác-chiến một thời-gian 2 hoặc 3 năm mới được biệt-phái; và đã có
những giáo-chức tử-trận hay thành phể-binh… Khi đã được biệt-phái thì
ban ngày họ dạy học, ban đêm chia nhau luân-phiên đi canh gác trường
học, gọi là làm công tác Nhân Dân Tự Vệ. Khóa đầu tiên huấn luyện 9
tuần quân sự vào dịp hè trong năm 1968, nghĩa là sau hai đợt tấn công
của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào các thành phố, trong đó có
thành phố Vĩnh Long…
Từ nhiệm sở Trung học quận Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long, tôi dự
định đến Sài Gòn ăn Tết vào ngày Mùng Hai, còn ngày Mùng Một thì
dự định hưởng Tết tại Thị xã Vĩnh Long. Tối 30 rạng sáng ngày Mùng
Một, tôi ở trong một Hotel gần chợ Vĩnh Long, không ngờ nơi ấy là một
trong vài địa-điểm xâm nhập và biến thành chiến địa. Trước khi máy
bay trực thăng Mỹ đến oanh tạc, chúng tôi chạy thoát khỏi khu vực,
chạy đến lánh nạn ở Nhà Thờ chính của thành phố Vĩnh Long (vốn là
trú sở trước 1963 của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục). Nghe nói vào
đợt tấn công lần thứ hai trong tháng 5/1968, nhà thờ này lại là khu
xâm nhập của quân Mặt Trận do tướng Trần Văn Trà chỉ huy và nhà thờ
cũng thành nơi chiến địa. Chiến sự gần như ở khắp nơi, nhiều người
chểt, chính tôi đã có thấy vài người trúng đạn nằm im lìm trên
đường phổ Vĩnh Long, và trên trời xanh ở vùng kinh rạch không lúc nào
vắng những con chim ó bay lượn do chúng đánh hơi được mùi tử-thi…
Không đến Sài Gòn được, nên tôi phải quay về Cần Thơ, để từ Cần Thơ
đi tàu đò trở lại nhiệm sở Trung Học Trà Ôn. Thời gian Tết ấy,
quốc-lộ hay tỉnh-lộ đều khó thông suốt hoặc bị cắt hẳn. Về lại
Trà Ôn, chẳng bao lâu, cũng còn trong thời gian Tháng Giêng Mậu Thân,
tôi lại chứng kiến cảnh máy bay phản lực Mỹ từ Phi Trường Trà-Nóc
Cần Thơ oanh tạc bắn phá khu vực Mộ Ông Hàm kiên cố tại Xã Thiện-Mỹ
Trà Ôn. Ông Hàm người Hoa-kiều, ngoài ngôi mộ đồ sộ còn 12 cổng Địa
Ngục, nên toàn vùng rất bề thế vững chắc. Quân Mặt Trận cố thủ ở
đó định bao vây Trà Ôn. Khi họ rút đi, tôi có đến coi, thấy ngôi mộ
cao lớn bằng đá sa-thạch màu trắng xám, mái bị hỏa-tiễn bắn trúng
nhưng chỉ sứt mẻ một mảng nhỏ, toàn vùng mộ trống trải quang đãng.
Trở lại thăm cảnh cũ sau 48 năm (ngày 14/11/ 2016); tôi thấy lại cảnh
quang có vẻ khác hẳn (xin xem photo đính kèm). Dấu vết chiến-sự Tết
Mậu Thân rất lớn ở các thành phố, nhưng rải rác ở quận huyện, đã
đi vào thơ của tôi trong hồi-tưởng:
BIẾT RỒI, ÐIỀU TRỪU TƯỢNG
Trời không mây, xanh thẳm
Có hai con ó đen
Bay vòng rồi đảo lại
Cảnh này, dường thấy quen.
Nhớ rồi, mùa xuân ấy
Quận huyện, lửa chiến tranh
Người chết bờ kinh vắng
Trên trời, ó quẩn quanh.
Bóng ó thời tao loạn
Là hình ảnh tóc tang
Bây giờ chúng bay đẹp
Một đường bay thênh thang.
Biết rồi, điều trừu tượng
Vượt ngoại diện, sắc màu
Thấy gì trong tương phản
Con ó thời trước, sau?
Ở trên xấu và đẹp
Là nguyên lý tồn sinh
Loài tìm ăn xác chết
Thuần khiết lúc thanh bình.
Mùa đông đã sắp hết
Ðường xác lá, sương mù
Cũng thấy rồi, trừu tượng
Xoay vần là thiên thu.
(Sáng tác trong tháng 11 năm 2010)
Mộ Ông Hàm ở Trà Ôn-Vĩnh Long, photo ngày14/11/2016
Chỉ dạy học ở nhiệm sở Trung học Trà Ôn một niên-học 1967-1968;
qua niên-học 1968-1969 thì tôi làm đơn xin đổi đến dạy ở Trung Học Đức
Tôn thuộc Quận Đức Tôn tỉnh Sa Đéc (nay là Huyện Cái-Tàu-Hạ thuộc
tỉnh Đồng Tháp). Tôi không trú ngụ trong quận Đức Tôn mà cư-trú tại
Bến phà Mỹ Thuận, tuy thuộc tỉnh Vĩnh Long, nhưng chỉ cách Trung học
Đức Tôn (thuộc tỉnh Sa Đéc) khoảng 4 hay 5 cây số, thường ngày ngồi xe
lam đi dạy học. Tôi ở tại Bến phà Mỹ Thuận trong ba niên-học
1968-1969, 1969-1970, 1970-1971. Khoảng thời-gian này, phố xá gẩn như
cháy rụi tại bến phà Mỹ Thuận, và đang được xây dựng lại, vì nơi
đây cũng là một bãi chiến trường trong Tết Mậu Thân 1968. Khi sắp sửa
di chuyển đến dạy học tại Thị xã Vĩnh Long, tôi thấy một Sỉêu Thị
đã khai trương tại phố xá bến phà. Cầu Mỹ Thuận đã cho thông xe 17
năm rồi, bắt đầu từ năm 2000, ở địa-điểm khá xa phố xá bến phà
thuở xưa (Xin xem photo Bến phà Mỹ Thuận năm1970, và Cầu Mỹ Thuận năm
2000: chụp khi qua phà cũ và chỉ một tuần sau thì cầu cho thông
xe).Tôi đã có một bài thơ hồi-tưởng thời gian hồi-sinh phố xá đó
với tường vách mới dựng, cột kèo tua tủa. Bài thơ hồi-tưởng liền
sau chiến sự, với hy vọng tạo nên tính hội họa trong thơ, “lấy mẫu
họa-tính” trong bài thơ “Cánh Đồng, Con Ngựa, Chuyến Tàu” của Tô Thùy
Yên đăng trong “Tạp-chí Sáng Tạo” năm 1956, qua các câu do từ-ngữ tạo
hình đậm nét: “Trên cánh đồng hoang thuần màu… Tàu chạy mau mà
qua rất lâu… Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu… Ngựa thở hào hển,
thở hào hển… Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn… Cánh đồng, a! cánh
đồng sắp hết… Ngựa ngã lăn, mình ướt như cỏ/ Chấm giữa nền nhung
một vết nâu”. Bài thơ này của Tô Thùy Yên, ngoài họa-tính còn
rất sáng tạo ở nhạc-tính. Bài thơ của tôi chỉ lấy mẫu ở họa-tính,
ngoài ra tác-giả cũng mong nuốn có chút ít màu sắc hậu-chiến-sự:
VỌNG THANH VÀ ẢO GIÁC
Tôi ở Bắc Mỹ-Thuận
Hai năm, sau Mậu Thân
Nơi đây từng chiến địa
Bến phà hồi sinh dần.
Những lầu xây dang dở
Cột kèo, tường xi-măng
Sân thượng, sắt tua tủa
Như phế-tích thềm trăng.
Tiếng mèo gào, nghe rợn
Loài thú hoang mái nhà
Một bóng đen góc tối
Có thanh sắt đâm qua.
Ðó chỉ do ảo giác
Bởi cột kèo dở dang
Mèo nằm phía dưới trụ
Như một suốt xuyên ngang.
Có đáng là chất liệu?
Cho họa sĩ khắc hình
Cho nhạc sĩ ghi tiếng
Không đành để lặng thinh.
Một chút nhớ xưa cũ
Nơi bến phà khuya xanh
Nổi chìm mảng ký ức
Ảo-giác và vọng-thanh!
(Sáng tác trong tháng 11/2011)
Qua phà Mỹ Thuận trước ngày cầu cho thông-xe (năm 2000) và Photo 1970
Xin trở lại nói về công tác Nhân Dân Tự Vệ: Nhân dân Tự Vệ tại
một trường học lớn như ỏ Thị xã thì gồm đủ thành phần: Giáo-chức
9 tuần thụ huấn quân sự, giáo-chức sĩ quan các cấp từ Chuẩn Úy đến
Đại Úy biệt phái; cấp cao quân đội hơn nữa chắc không có hoặc rất
hiếm. Nếu tình-thế căng thẳng về chiến sự thì Đại Úy biệt phái dĩ
nhiên chỉ huy nhóm Nhân Dân Tự Vệ ở một nhà trường. Khi tôi đổi nhiệm
sở từ trường Trung Học Quận Đức Tôn tỉnh Sa Đéc (nay là Huyện
Cái-Tàu-Hạ tỉnh Đồng Tháp) đến Trung Học Thủ Khoa Huân thuộc Thị xã
Vĩnh Long vào năm 1972 (đây là nhiệm sở thứ ba trong đời dạy học của
tôi). Tôi dạy Việt Văn, nhưng bắt đầu dạy Triết ở đó vào năm 1973,
thay thế Giáo sư Võ Minh Thế có lệnh gọi nhập ngũ. Đến tháng 3 năm
1975 thì tình hình chiến sự rất căng thẳng, có những tin tức phao đồn
phía bên Mặt Trận sẽ triệt hạ Đồn Pháo Binh ở sát gần và cùng một
phía với Trung học Thủ Khoa Huân. Cả hai nằm bên “Quốc lộ 4” (bây giờ
là “Quốc lộ A1”) nối liền Vĩnh Long- Cần Thơ. Tin phao đồn ngày càng
đáng sợ, như phía bên kia đã dự-trù đóng sẵn vài trăm quan-tài dành
cho chiến-sĩ tử-trận của họ. Như vậy là trận đánh sẽ rất lớn. Lúc
ấy thật lo sợ, sau này nghĩ lại thì chắc đây là tin-tức thuộc
“chiến-tranh cân-não”.
Trường Thủ Khoa Huân năm 1972, nay là Trường chính trị Phạm Hùng (Vĩnh
Long)
Căn nhà nhỏ của tôi thì lại ở gần và đối-diện trường học, bên
một rạch nước khá sâu ghe lớn có thể thông thương. Dãy nhà dọc dài
con rạch này làm sao chịu nổi nếu khu vực quanh đồn pháo binh thành
bãi chiến trường, vì nhà nhà đều cất bên rạch nước sâu thì đâu nơi
nào có hầm trú ẩn. Giải pháp cho bớt lo sợ là mua những tấm gỗ
dầy chêm thêm trên sàn nhà, có nguy biến bom đạn pháo-kích thì cả
gia-đình chun xuống dưới sàn nhà phía còn tiếp-xúc với mé lộ. Còn
phía tiếp xúc với rạch nước thì đành chịu, vì nhìn ra thật trống
trải khi nước ròng (do nhịp thủy triều lên xuống từ sông Tiền Giang).
Lo sợ thì vẫn lo sơ, thời gian này tôi lại bận rộn dạy học ở 3
trường, ngoài trường Thủ Khoa Huân, còn vài giờ mỗi tuần dạy thêm
tại nhiệm sở cũ và ở một trường Trung-học Tư-thục, cho đến ngày 30
tháng 4 năm 1975. Dấu vết nghề-nghiệp trong thời-cuộc không mấy bình
yên đã được hồi-ức qua thơ:
TỪ MỘT NƠI ĐẾN ĐƯỢC HAI DÒNG SÔNG LỚN
Thời chiến tranh lan khắp
Tôi dạy học bên sông
Lần lượt đổi nhiệm sở
Ven hai dòng mênh mông.
Ðều là vùng bất ổn
Ðơn xin đến, dễ dàng
Năm tháng, vui trường lớp
Ði cho biết mênh mang.
Lần hồi, về thị xã
May, vẫn gần hai nơi
Mỗi trường mỗi năm lớn
Lớp Mười Hai gọi mời.
Buổi sáng, nhiệm sở chính
Chiều, thời biểu chia hai
Mấy giờ xe chuyển vận
Ba địa điểm hòa hài.
So đũa, mùa nào trắng
Dừa nước vạn niên xanh
Thấy hoài thành vô cảm
Sau, tiếc thời qua nhanh.
Vì bảy lăm, năm cuối
Môn dạy xưa, hết cần
Nhớ những đồng nghiệp cũ
Những Hiệu Trưởng tình thân.
Mãi sau, thường lơ đãng
Tưởng còn đi trong mơ
Trên hành trình nối kết
Những trường lớp ven bờ.
(Sáng tác trong tháng 5 năm 2008)
Trần Văn Nam
(City of Walnut, California, tháng 5 năm 2017)