
Chiều ngất lạnh thấu hồn luân lạc
Nâng chén sầu ta lại mời ta.
Lạnh.
buốt lạnh
động bao nỗi nhớ
Tháng tư nào khóc hận can qua!
(Chiều Nghiêng Chén – NL)
I.DUYÊN GẶP GỠ
Tính cờ một hôm vào trang Sáng Tạo,
tôi đọc được một truyện tên Nét Xuân của tác giả Phạm Hồng Ân. Đọc xong, tôi
vội đọc lại thêm lần nữa vì truyện hay quá, nhân bản quá! Tôi xin được tóm tắt
như sau (xin tác giả cho phép) :
Một hôm, trên đường đi bộ, khi tới
giao điểm giữa Harmony Grove và Hale, chúng tôi thấy dưới gốc khuynh diệp nhiều
túi giấy đựng thức ăn nhơ nhớp, bên cạnh hàng chục chai bia và lon coca đã uống
hết nước, nằm lăn lóc trên cỏ. Vợ tôi dừng lại, lấy chân đá vào chiếc lon, chợt
reo lên.
– Ông ơi, mấy cái này mình lượm, đem
về bán ve chai, có lý lắm nha!
Nhất cử lưỡng tiện. Tích thiểu thành đa. Tăng thêm thu nhập gia đình, Ông
không muốn sao?…
…Thế là mỗi buổi sáng, vợ tôi mang
theo cái túi nhựa, phòng khi lượm được cái lon hay cái chai thì đựng vào đó. .
Tôi quyết định tiến tới thùng rác, quyết định nhào vô khu plaza ở Valley
Parkway, lùng sục tất cả các nơi chứa rác, đảo ngược mục tiêu ban đầu, lấy việc
lượm ve chai là chính, còn chuyện đi bộ chỉ là phụ...
Vợ tôi thức dậy thật sớm, ra khỏi
nhà trước tiếng chim kêu, mới hy vọng làm chủ được tất cả những vỏ lon chai
trong các thùng rác ở plaza. Tờ mờ sáng, ngọn đèn ở parking lot chưa kịp tắt,
vợ chồng tôi đã khăn gói ra đường. Con đường thênh thang, bụi sương còn mù mờ,
chưa tan hẳn trong không gian đang trỗi sáng. Tôi đinh ninh, chỉ có vợ chồng
tôi là người bộ hành đầu tiên trong ngày. Nhưng không, trước mặt tôi, cách
khoảng vài chục thước, hai vợ chồng người Mỹ đang lêu khêu đi với một con chó
to lớn. Vợ tôi buột miệng.
– Ông có thấy hai người đi đằng
trước không? Họ đang xách một túi nhựa lớn hơn túi của mình. Chắc họ cũng lượm
ve chai?
Tôi dừng lại, cố gắng định thần,
quan sát cho kỹ hơn.
– Họ đi mua thức ăn sáng về đó. Hai
người này là người Mỹ, ăn mặc đàng hoàng, chẳng lẽ họ lượm ve chai?
Vợ tôi tấn công.
– Lượm ve chai, ai lượm không được?
Ở đó mà phân biệt Mỹ hay không Mỹ?…
….Nơi gốc khuynh diệp, dưới ánh mắt
nhòa nhạt của tôi, vợ chồng người Mỹ khom lưng xuống cỏ, vừa lượm vừa bỏ vào
túi lia lịa. Chỉ vài phút sau, cái túi nhựa căng lên thấy rõ, hai vợ chồng mới
chịu kéo con chó bước đi. Lúc đó, bà vợ tôi vừa lò mò tới Harmony Grove. Bà
đang đứng dưới gốc khuynh diệp, chấp hai tay sau đít, mặt bí xị chờ tôi đếm
bước.
– Chắc đêm qua tụi trẻ nó tụ tập tại
đây ăn nhậu. Tôi đoán, vỏ chai và vỏ lon nhiều lắm. Ái chà! hai vợ chồng thằng
cha Mỹ “vớt” hết. Kỳ này, mình thua, trắng tay luôn.
Tôi dịu giọng.
– Hôm nay, bà ăn nói giống dân giang
hồ thế ư? Của vào tay ai thì người đó hưởng. Ganh tỵ, tham lam làm gì cho thêm
mệt…
Vợ tôi nóng nảy.
– Ngày mai ông phải thức cho sớm,
sớm hơn bữa nay. Nhất định ra đường thật sớm. Ông cứ chậm như rùa thế này, thà
dẹp tiệm, sướng hơn.
Sáng sau, chúng tôi thức sớm hơn
nữa. Vợ chồng kéo nhau ra đường,ngoài đường, bóng đêm vẫn chờn vờn khắp nẻo,
chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ bình minh sắp trỗi dậy. Nhưng hỡi ôi, đằng trước
vợ chồng tôi cũng là bóng dáng của đôi vợ chồng người Mỹ và con chó bẹc-giê to
lớn. Họ âm thầm đi và càng lúc càng bỏ chúng tôi một khoảng cách rất xa. Vợ tôi
nhìn theo, ấm ức, trút bực tức vào tôi.
– Ông cứ lề mề, chậm chạp mãi. Bữa
nay vợ chồng hắn lại đi trước. Đi sau, còn cái gì nữa đâu mà lượm
Khoảng hai mươi phút sau, tôi đã
thấy bóng dáng vợ chồng người Mỹ và con chó bên gốc khuynh diệp. Họ bê một túi
nhựa nặng trĩu trên tay, vừa bước lên vỉa hè, ung dung đi thẳng về phía chúng
tôi. Dưới ánh đèn sáng choang của đại lộ số 9, vợ tôi hậm hực ngó chăm bẳm vào
túi nhựa của ông Mỹ. Trời ơi! Bên trong lớp nhựa trong vắt của túi, chúng tôi
chỉ thấy vô số những tấm giấy lau miệng nhơ nhớp, những bịt ny-lon nhàu nát,
những hộp đựng thức ăn bẩn thỉu cùng hàng đống những thứ linh tinh dơ dáy khác.
Chúng tôi chẳng thấy hình thù của bất cứ vỏ lon hay vỏ chai nào nằm chung trong
đó.
Không kềm nổi ngạc nhiên, tôi gượng
cười, chào hai vợ chồng người Mỹ.
– Chào ông bà. Ông bà khỏe không?
– Cám ơn. Chúng tôi rất khỏe. Sáng
nào cũng đi bộ một vòng. Vui lắm.
Vợ tôi lại ngó túi nhựa trên tay ông
Mỹ, tò mò.
– Ông đựng cái chi mà lềnh kềnh
trong túi vậy?
– Ồ, đó là rác ông bà ạ! Sáng nào
chúng tôi cũng đi bộ, thuận tay lượm rác luôn.
Tôi ngỡ ngàng, ngó vợ tôi. Bà đang
cúi mặt xuống đất như muốn lẩn tránh ánh mắt của tôi. Để che đậy nỗi xấu hổ,
tôi cố dịu giọng, ca ngợi.
– Có ông bà tình nguyện lượm rác như
thế này, thành phố chắc chắn sạch. Dân ở đây sẽ biết ơn, nghĩ đến ông bà.
Ông Mỹ lắc đầu.
– Đây là thói quen của chúng tôi, từ
xưa tới giờ. Nó như một cái thú, một sở thích. Đâu cần ai phải ghi công hay
biết ơn.
Nghe đến đó, tôi chợt bối rối, nắm
tay bà vợ lôi đi một hơi, sau khi cố lịch sự chào từ giã ông bà Mỹ.
Trong lúc người ta tự nguyện, quên
đi lợi ích cá nhân, đem sức lực và tinh thần cống hiến cho xã hội – thì hai vợ
chồng tôi chỉ lo chuyện riêng tư. Đã vậy còn muốn tranh chấp, tị hiềm với người
ta nữa.(Nét Xuân – Phạm Hồng Ân)(1)
Chính truyện ngắn đầy nhân bản này
đã đánh động tâm, thúc hối tôi phải tìm hiểu anh thêm. Vào trang Facebook anh,
tôi giật mình, sững sờ khi gặp bài “Đọc Kiều, ở rừng Xuyên Mộc” Biết bao kỷ
niệm vui buồn dâng trào trong tôi! Xin được ghi ra đây bài này:
Đọc Kiều, ở rừng Xuyên Mộc
(kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn
Du)
ngồi buồn mở sách Nguyễn Du
chuyền nhau đọc giữa hoang vu núi rừng
thương Kiều nước mắt rưng rưng
tội cho phận gái cùng chung kiếp sầu
thương thi hào gánh nỗi đau
tuổi thanh niên sớm lao đao cuộc đời
thương ta góc bể chân trời
chưa tang bồng đã nằm phơi bụng tù
thương người bộ tịch lù khù
bán linh hồn quỷ ngồi tu trong chùa
thương em dưới cội tình xưa
khóa tim ta bởi lá bùa sở khanh
thương hồng nhan số mong manh
mệnh sao thoát lưới trời xanh khéo bày?
thương loài ma quái sơ khai
từ trong tiền sử về đây làm người
thương non sông rách tơi bời
mảnh rơi khắp biển mảnh rời khắp nơi.
ngồi buồn ta bói Kiều chơi
thân tàn ma dại mơ đời lên mây
cám ơn giữa cõi lưu đày
ta ôm Kiều nhớ thiên tài Nguyễn Du.
Có những điều làm tôi sững sờ chú ý
đến bài thơ là Xuyên Mộc, Kiều và “cùng chung kiếp sầu”
. Về Xuyên Mộc (*): vùng đất đỏ mà tôi từng biết khi đến
Tiểu khu Bà Rịa, trong chiến dịch giành dân lấn đất năm 1973, và các bạn tôi,
trong đó có Phạm Hồng Ân, đã kinh qua những thời gian khủng khiếp trong cái gọi
là ” Trại Cải Tạo”, hay “Đại Học Máu” như thi sĩ Hà Thúc Sinh đã gọi. Tại tiểu
khu Bà Rịa,tôi đã có những kỷ niệm tuyệt vời với bạn bè những buổi sáng
sớm, bên ly cà phê nóng, trên tay “Tương tư thảo”, thả hồn vào bài hát tuyệt vời:
“Xin cảm ơn thành phố có em / Xin cảm ơn một máy tóc mềm / Mai xa lắt
trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên”(2)
. Về Truyện Kiều: Truyện thơ tuyệt vời của Nguyễn Du chúng tôi đã nhớ nằm lòng
trong những năm Trung học thời niên thiếu (trước 1975) và đã từng rơi lệ
theo nỗi truân chuyên của Thúy Kiều:
“Trải qua những cuộc bể dâu / Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Vâng, những điều trông thấy thật sự
rất đau đớn lòng cho các “Chàng Kiều” sau ngày “gãy súng, tan hàng”.
Kiều hả, những chìm nổi, truân
chuyên “nhầm nhò gì” so với những “Chàng Kiều” thời đại chúng tôi:
– Nàng Kiều tan vỡ giấc mộng tình
đầu, ngậm ngùi bán mình vào Thanh Lâu, còn kiếm được vàng chuộc cha.
“Chàng Kiều” tan vỡ giấc mộng bảo vệ và xây dựng một xã hội tự do, nhân bản; bị
lừa ép vào “Thanh Lâu Cải Tạo” chẳng kiếm được gì ngoài xa cách cha mẹ, vợ con!
– Nàng Kiều ở Thanh lâu nhàn nhã, ăn
no mặc ấm, nếu không nói ăn ngon mặc đẹp. Chàng Kiều “chém tre, đẵn gỗ trên
ngàn”(**), ăn đói, mặc rét; nếu không nói là trần truồng và ăn luôn cả
thức ăn dính cứt (Hãy đọc các hồi ký về trại Cải Tạo nếu các bạn không tin)
– Nàng Kiều làm đĩ chỉ ô nhục về thể
xác, Chàng Kiều “làm đĩ ” ô nhục cả tâm hồn! (Không dám nói những điều mình
muốn nói, nói những điều mình không muốn nói, ca tụng những điều mình biết là
sai trái, không phải là làm đĩ sao? Vì sợ, vì muốn bảo toàn sinh mạng, nên bắt
buộc phải làm, nhưng dằn vặt không nguôi. Ai mà không vậy! ). Đĩ thể xác
và đĩ tâm hồn cái nào nhục hơn?!
Này nhé, các bạn thử đọc trích đoạn
này:
“…Công việc chăn heo của bác già (cụ
Tr/ tá nhà văn Thảo Trường trong trại Cải Tạo – NL chú thích) không được lâu vì
bác phạm sai lầm nghiêm trọng. Một hôm vợ trại trưởng dắt một con lợn cái đến
đội chăn nuôi xin heo nọc nhảy đực. Chuồng lợn có một con heo nọc rất lớn,
thuộc giống tốt. Cô phó tiến sĩ bảo ông lão mở cửa chuồng cho con cái của trại
trưởng phu nhơn vào. Hai người đàn bà cầm gậy đứng ngoài chuồng lùa con cái đến
gần con nọc. Cũng chẳng cần phải đợi lâu, anh heo đực vốn đang sung sức lại
thiếu cái lâu ngày, nó sấn sổ nhào tới gầm lên như cọp, hai chân trước chồm lên
lưng lợn của trưởng trại phu nhơn khiến con cái ngã dúi dụi muốn bỏ chạy, hai
người đàn bà dùng gậy ấn đầu con cái xuống bắt nó khuất phục, bà trại trưởng
còn dịu dàng vỗ về con heo của mình:
– Ngoan đi con, chịu khó tí đi con.
Cô phó tiến sĩ thì thét người tù
già:
– Anh vào hẳn trong chuồng phụ với
con cái bắt nó phải quì xuống… chổng mông lên cho con đực nó dễ nhảy.
Nhớ đến lời căn dặn của “thằng em”,
nó bảo phải chịu khó nhẫn nhục, nín thở qua sông, bác già vội vã trèo vào
chuồng. Con heo nọc đang ngon trớn chợt thấy người thì nổi ghen, giận dữ kêu
rống lên xông tới bác già, sợ quá người lại tháo chạy, phóng bay ra khỏi
chuồng. Hú vía! Người đàn bà và cô phó tiến sĩ cười ngặt nghẽo:
– Anh thua con lợn à?
Bác già gật đầu:
– Thua! Tôi thua giống lợn!
…….
…Bác già đóng cửa chuồng rồi đi
xuống bếp nấu cám. Lát sau cô phó tiến sĩ xuống đưa cho bác tù già hai quả
trứng gà, cô nói:
– Trứng bồi dưỡng. Anh coi “lô”,
không được đi đâu nhá, tôi đi có tí việc một lát về, “ban” có tới báo cáo là
tôi đi liên hệ rau lang cho lợn ở đội nông nghiệp.
Bác già báo cáo “rõ”.
……
Bác già thả hai quả trứng vào trong
cái ca, bác chế đầy nước sôi, canh giờ cho vừa chín tròng trắng, bốc vài hạt
muối, bác ăn hai trái trứng bồi dưỡng theo đúng kiến thức sách vở mà bác đã đọc
xưa kia, để đạt được độ bổ béo nhất mà không có hại gì cho lá gan vốn đang rất
yếu. Thiếu thốn nhiều ngày, cơ thể chứa toàn khoai sắn, vị giác lâu không được
thứ gì kích thích, đưa trứng gà vào miệng, sao mà nó thơm, sao mà nó béo, sao
mà nó ngậy, sao mà nó ngon? Đến thế! Cơ chứ? Hở Trời?
Công việc xong xuôi thì cán bộ về,
cô đi thẳng xuống bếp:
– Anh cho lợn giống bồi dưỡng chưa?
– Báo cáo xong hết cả. Tôi phân phối
cám nấu cho các chuồng như thường lệ.
– Thế còn hai quả trứng gà?
– Cám ơn cán bộ bồi dưỡng cho, tôi
đã ăn…
Cô phó tiến sĩ nhảy dựng lên, hai
chân cô dậm bành bạch trên nền sân đất đã quét sạch lá:
– Tôi biết ngay mà. Ra đi một lát
tôi chột dạ sinh nghi, trở về không kịp, thế anh đã… nuốt vào bụng rồi à?
– Dạ, tôi tưởng cán bộ cho tôi.
Cô phó tiến sĩ nói như hét:
– Đưa anh để anh cho vào chậu cám
con lợn giống, tiêu chuẩn bồi dưỡng của nó sau mỗi lần nhảy đực. Anh ăn tranh
của nó là anh bóc lột nó. Các anh bóc lột nhân dân quen rồi, bây giờ lại bóc
lột của lợn nữa!
Người tù binh già ngay đơ chết đứng,
lắp bắp:
– Tôi tưởng cán bộ bồi dưỡng cho
tôi.
Cô cán bộ lại thé thé:
– Nó nhảy, chứ anh có… làm gì đâu mà
bồi dưỡng.
– Tôi… xin lỗi…
– Xin lỗi, tư sản các anh có cái trò
xin lỗi, xin lỗi là xong à? Thế còn hai quả trứng? Vấn đề là hai quả trứng chứ
không phải là xin lỗi.…”(Đá mục- Thảo Trường)(3)
Thấy chưa, sự ô nhục đánh đĩ của
“Chàng Kiều”!
– Nàng Kiều, sau khi gặp Từ Hải, ra
khỏi Thanh lâu, làm “Bà”, ân đền oán trả…cuối cùng rồi cũng đuợc tái hợp. Chàng
Kiều ra khỏi “Thanh Lâu” được gì? Không phải là con người (Ngụy, không có quyền
công dân), bị cô lập, nhiều khi vợ con ly tán, gia đình tan vỡ.v.v ..Ôi, biết
bao cảnh sầu đời!
Cũng may nhờ “tụi Tư Bản giãy chết”
đưa tay đón, nên không chết trước ngày thấy “Thiên Đường Cộng Sản”. Anh Phạm
Hồng Ân là một trong những “Chàng Kiều” đã được Mỹ đón nhận cưu mang!
Bài thơ Kiều, Xuyên Mộc này, cùng
truyện ngắn nhân bản trên thôi thúc tôi tìm hiểu rõ anh Phạm Hồng Ân thêm, mới
vỡ lẻ tôi và anh gần như cùng quê và có nhiều điều trùng hợp.
. Về cùng chung kiếp sầu:
– Anh ở Cà Mau, tôi ở Đại Ngãi (Long
Phú) rất gần nhau theo đường bờ biển. Đại Ngãi (Vàm Tấn), cũng như Cà Mau, là
địa điểm nổi tiếng cho những người vượt thoát bằng đường biển. Nơi có Cù Lao
Dung (dãi đất dài nổi lên giữa sông, bắt đầu từ Đại Ngãi chạy ra tận cửa biển
Trần Đề, dài khoảng 20 cây số (10 – 12 miles) ngang độ 1/2 cây số ( 1/4 mile)),
với “Thanh Lâu” nổi tiếng dành cho các sĩ quan “Ngụy” và những người vượt biên
bị bắt. Cũng nơi này, bao người muốn vượt thoát đã bị đập đầu, chặt cổ, thây bị
vùi dưới bãi bùn, do bàn tay của “chiến sĩ can cường” Công An Huyện tổ chức
vượt biên giả, để lấy vàng của những người dân vô tội muốn ra đi để tìm nơi
sống an lành. Đây cũng là nơi gia đình tôi “chém vè” chờ nửa đêm không trăng,
lên chiếc ghe con đi sông dài khoảng 10 mét (30 ft), thả theo giòng nước
ròng trôi ra cửa biển để trốn chạy. (Nếu chạy máy, Công An biên phòng nghe
tiếng động sẽ bắn xả không nương). Bảy ngày lang thang trên biển, rồi cũng tơi
tả đến được đảo Bidong (Malaysia). Cũng may không đến nỗi ăn thịt người chết
như những ghe đến đảo sau. Mô phật! Amen!
– Anh có người cha thân yêu đã mất,
tôi cũng có người cha yêu đã mất trong ngục tù CS, qua cuộc đàn áp Tôn Giáo sau
tháng 4 /1975.
– Anh có người anh Pham Hữu Nghĩa
(nhà văn Hiền Giang) đã mất tích trên chiến trường Quảng Ngãi, trong những ngày
cuối cùng tháng 4 /1975. Tôi có người anh, Trung úy HQ Nguyễn Văn Yên, vượt
trại Cải Tạo ở Chi Lăng (Châu Đốc) mất tích tháng 01 /1976 vì không chấp nhận
“Thiên Đường CS”
Đồng cảm dễ làm người gần lại với
nhau. Chúng tôi đã trở thành bạn nhau.
- VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ PHẠM HỒNG ÂN
Hôm nay, tôi xin phép được ghi ra
vài cảm nhận sơ sài của mình về thơ Phạm Hồng Ân.
Điều đầu tiên có thể xác định thơ
anh là thơ hoài niệm, bùi ngùi nhớ về. Nhớ về gi? Quê hương với mẹ cha, anh em,
với những mối tình thời trẻ… Quê hương với chiến tranh cùng với những hệ lụy
của nó: Chiến Hữu, Bạn Bè, Rượu, Người Nữ…Và cuối cùng… Tù Tội, Ly Hương!
Thơ anh phản ánh chính nội tâm anh
theo những thăng trầm của đời mình, của quê hương nhiễu nhương. Là nỗi cô đơn
của thân phận người lưu xứ, với những đổi thay đen trắng, những buồn vui về
thói đời…
Đây, chân dung tự vẽ của anh:
chân dung ta – một kẻ trôi sông
và lạc chợ từ khi thua trận
từ thuở thanh niên đã mang lận đận
mất cửa, tan nhà, vỡ mộng, bay mơ.
chân dung ta – một đứa làm thơ
lúc đi học hiền như cục bột
thơ bắt ta làm người thật tốt
lỡ yêu ai, dùng chữ để ngợi ca.
nghe theo thơ, ta hết sức thật thà
đem mộng đắp thành non thành núi
rồi có ngày mộng rơi như suối
chảy xuôi dòng ra cửa sông chơi.
ta hóa thân tên lính chọc trời
khuấy nước thách nghịch thù ngạo mạn
tánh cọc cằn nhưng vẫn còn lãng mạn
vẫn yêu thơ và cũng vẫn yêu em.
(chân dung )
III. THƠ PHẠM HỒNG ÂN
Trước tiên, xin cho tôi được ngõ vài
lời: Tôi muốn dùng chính thơ anh để dựng lại cuộc đời của người bạn qua bao nỗi
thăng trầm của cuộc thế, của quê hương buồn thảm. Đây chỉ là những cảm nhận,
những đồng cảm, vì thấy hình như có cuộc đời mình trong đó, chứ không phải BÌNH
THƠ, xin các bạn hiểu cho! Tôi không phải nhà PHÊ BÌNH và cũng
không có khả năng đó.
Chúng ta bắt đầu bước vào thơ Phạm
Hồng Ân. Hãy đọc bài thơ Thi Sĩ hoài niệm QUÊ HƯƠNG trong “Tiếc Thương”:
Quê hương là điều đã mất
Là điều còn lại trong tim
Quê hương là điều rất thật
Là điều hàm súc thiêng liêng.
Quê hương là men rượu đắng
Cụng ly say khướt một đời
Quê hương là vành khăn trắng
Tháng tư che kín một thời.
Quê hương là người lính trận
Nằm đây xương cốt chưa tan
Quê hương là trang sử hận
Thiên thu thương tiếc vô vàn…
(Tiếc thương)
Anh viết về người CHA của mình trong
bài thơ “Dâng hương hồn ba”. Người cha thân yêu khoắc khoải đợi chờ đứa
con trở về từ ngục tù “cải tạo”, và cuối cùng chắc chết trong vô vọng, thảm
sầu, trong mong đợi con về. Khi người con về thì:
Tôi trở lại ngôi nhà xưa lặng lẽ
Nhin phù vân in bóng nước đôi bờ
Vẫn bến cũ con đò trôi quạnh quẽ
Vẫn góc trời nhàn nhạt khói bơ vơ
Vẫn con đường dẫn vào sân xanh cỏ
Bên hiên kia còn dăm chậu hoa tàn
Ba vĩnh viễn trở thành người thiên cổ
Bình hương tro nằm đựng xác thân tan
Ba để lại gốc bách tùng ngoài cổng
Cậy bao năm – tôi bao tuổi thăng trầm
Cây bao giờ cũng vươn cành hy vọng
Che đời tôi khỏi nắng dữ mưa thâm
Tôi trở lại ngôi nhà xưa dột nát
Bình trà thơm vỡ vụn nét hoa văn
Gốc bách tùng gục ven sân trụi lá
Dòng sông trong ô uế bụi nhân gian
(dâng hương hồn ba)
Con trở về ngôi nhà xưa dột nát
Bới tàn tro để tìm lại dư hương
Chỉ còn đây di ảnh ba nhòa nhạt
Ôi mất rồi một mái ấm yêu thương
(Trở về mái nhà xưa)
Nhà xưa dột nát, bách trụi hoa tàn,
dòng sông ô uế…và buồn ơi “Bình hương tro nằm đựng xác thân tan”!
Bây giờ chúng ta hãy nghe tác giả
nói về người MẸ:
Ngày xưa má dắt tôi về ngoại
Trên chuyến xe ngang mấy bến phà
Nhà ngoại lá vườn che kín mái
Đường trơn mây rắc bụi mưa qua.
Bữa cơm đạm bạc canh rau má
Mà thấy đau đau dáng ngoại còng
Ơi là rau thơm bình dị quá
Nhắc lòng tôi nghĩ tới quê hương.
…
Hôm nay nắng hạ trời ly xứ
Nhớ má, nấu canh rau má tươi
Ôi, lá rau người thân lữ thứ
Không làm canh ngọt vị quê tôi.
(Rau má)
Hoài niệm, bùi ngùi nhớ thương mẹ và
quê hương: Rau má nơi đây cũng vẫn là rau ấy, nhưng vị sao không ngọt bằng canh
rau mẹ nấu cho con!
Và đây, những lời buồn thương cho số
phận chua cay của thằng EM thân mến, lâu rồi không gặp:
hằng chục năm anh không gặp mày
tưởng đời chiêu đãi kẻ hiền tài
tưởng mày đã lót tình thành tổ
nào biết giờ đây mây vẫn bay.
ôi non sông một dãy quê hương
anh đau thương đành phải tha phương
tội nghiệp mày như thân lá rụng
bám gốc mà sao lạ cội nguồn?
thương quá thằng em miền cuối Việt
dòng đời vẫn ngược chuyến trôi êm
vẫn đau giọt máu xưa oanh liệt
chảy ướt bờ môi sông núi đêm.
hằng chục năm cũng nỗi buồn này
cũng khuân quá khứ nặng lên vai
cũng nhớ thằng em môi ngậm thuốc
ngạo đời qua nét mặt chua cay.
(Gặp lại thằng em trên “phê bút”)
Thơ Phạm Hồng Ân cũng là thi ca của
tình yêu. Hãy xem anh viết về những mối TÌNH:
mùa hạ cho tôi lá xanh thơ mộng
dù hiên trường thút thít cuộc chia tay
dù dáng em như một bầu rượu nóng
lãng mạn nhìn, hồn vội chợt muốn say.
em đứng dưới cội tình khoe áo mới
làm rụng rơi từng chiếc lá xanh xao
một chùm phượng chở thơ tôi vừa tới
ửng hồng trong tim giẫy gọi tên nhau.
(Phượng và em)
Sáu giờ chiều ta chờ em tan học
Hình thì buồn bóng thì rụng quanh đây
Ta thấy em về đường xa áo đổ
Thành phố nghiêng mưa tạt tóc bay dài.
(Lời xin lỗi những giọt nước mắt
người tình)
Ối đẹp quá mối tình thời học trò,
thời phượng đỏ!
thơ anh đứng bên trời mưa tầm tã
ghe em xuôi nước đổ ra sông
phù sa đó, tình anh như ngọn mạ
cắm sâu vào lòng đất, đợi đâm bông.
hạnh phúc là nụ hôn còn bỏ lửng
là đôi môi chưa đỏ dấu yêu thương
là đầu lưỡi tê vị tình chập chững
thèm cuồng điên mộng mị cõi thiên đường.
(Tạ ơn những mối tình)
Tình anh như ngọn mạ cắm sâu vào
lòng đất… đợi đâm bông. Có ví von nào đẹp hơn?
Em về khua tiếng guốc đêm.
Dẫm trong ta triệu dấu êm tình đầu.
Chao ôi, đôi gót hồng đào.
Nghiêng nghiêng năm ngón đi vào tim ta.
Ðất nằm nhớ bước chân qua.
Nhớ con bướm lượn mù lòa đường bay.
Nhớ sao, áo lụa trang đài.
Thơm hương mật cúc, vườn ai, đầu mùa.
(Tám – Lục Bát)
“Chao ôi, đôi gót hồng đào, Nghiêng
nghiêng năm ngón đi vào tim ta” Lời thơ đẹp và mượt mà biết bao nhiêu!
Nhất là những bài thơ viết về CHIẾN
TRANH, về NGƯỜI LÍNH, và hệ lụy của nó đương nhiên là RƯỢU và ĐÀN BÀ,
TÌNH CHIẾN HỮU, chuyện trước sau, mất còn…phải không các bạn?
Bắt chước người xưa…quân mạc tiếu
Vui cười quên tuốt bóng chim bay
Đánh trận xong rồi về động liễu
Tìm nàng tiên dắt cõi thiên thai
(Tháng Tư Giữa Chiến Trường Long –
Khốt)
Ngủ ở Hòn Thơm ta lụy mãi
Mùi khô ngai ngái vịnh Dương Đông
Có cô giáo đảo tay mềm mại
Rót rượu đưa ta đến cõi hồng
(Từ sông ra biển)
Buổi sáng buồn tình ta uống rượu
Hình như có nắng ở trên cao
Bạn bè ngồi ghế chưa đông đủ
Không lẽ mời em thế chỗ sao?
(uống rượu với duyến ở
thạnh-phú-đông)
ĐÀN BÀ và RƯỢU hòa trộn nhau trong
cuộc đời của LÍNH. Tửu Sắc mà (Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi / Dục ẩm tì bà mã
thượng thôi / Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
– Vương Hàn)
Đêm ngửa nghiêng con sóng bạc đầu
Gõ bầu rượu hát suốt canh thâu|
Bởi em như nhạc rơi trên đảo
Làm nhói tim ta buổi tiễn nhau
Rượu đầy ly nhấp nửa phương trời
Một nửa chờ em uống chung môi
Độc ẩm tang bồng hề đọc ẩm
Bến cũ say mèm giấc mộng trôi
(Độc ấm trên đảo)
CHIẾN HỮU càng đậm tình thêm qua
chén RƯỢU
Gặp mi giữa chiến trường Long – Khốt
Bụi bám đầy râu, lộ nụ cười
Khói súng khét hơi người, mặc kệ
Khề khà ta vội cụng ly chơi.
Tàu ủi bãi nằm im kích giặc
Gò cao rải lính phục từng khoanh
Yên chí ngồi nhìn mưa trút thác
Rượu dư ta cạn suốt đêm tàn.
(Tháng Tư Giữa Chiến Trường Long –
Khốt)
Tưởng đâu mày nát biển tan sông
Hồn đã bay theo men rượu đế
Tưởng đâu mày ngã ngựa rơi cương
Chân bước một hơi xa nghìn dặm.
Mày hãy ngồi đây chơi rượu đế
Nền đất, chiếu rơm, trời sáng trăng
Không ai ca sĩ, ta hò hét
Ðời vui đâu thể thiếu âm thanh.
(Mừng bạn)
Và cũng chính RƯỢU mới có thể làm
vơi đi được nỗi buồn mất mát!
Hôm nay nhận được tin mi ngã
Trên đỉnh Cô -Tô nắng chói chang
Đù má, quân thù chơi xỏ lá
Rình mi bắn lén lúc dừng quân.
Tau ở đầu sông ôm vết nhức
Ực bình toong rượu khóc hu hu
(Tháng Tư Giữa Chiến Trường Long –
Khốt)
Tôi đồng ý với thi sĩ Lê Mai Lĩnh:
“Một điểm giống nhau giữa thi sĩ người lính NGUYỄN BẮC SƠN và người lính thi sĩ
PHẠM HỒNG ÂN: Đó là những tiếng CHƯỞI THỀ RẤT LÍNH, RẤT LÃNG MẠN, RẤT DỄ
THƯƠNG. Tiếng chưởi không làm ai giận, ghét, mà nó toát ra vẽ THẬT THÀ, CHÂN
CHẤT, CỤC MỊCH”:
Đù má, quân thù chơi xỏ lá
Rình mi bắn lén lúc hành quân
(Tháng Tư Giữa Chiến Trường Long –
Khốt)
Chinh chiến tạm quên đi thằng bạn
Mềm môi đù má cuộc đời chơi
(Uống rượu với duyến ở
thạnh-phú-đông)
Vâng, tiếng CHƯỞI THỀ của người lính
miền Nam rất độc đáo, rất dễ thương và…rất nhân bản, nhân hậu! Và cũng chính vì
nhân bản nên mới là “Bên Thua Cuộc”. Nhớ lời một ông tướng CS đã nói với tướng
VNCH Lê Minh Đảo rằng: “Các ông thua, một phần, bởi vì các ông không dám
bắn vào nhân dân” (4)
Ba mươi tháng tư với bao đau thương
đổ ập xuống với bao tan vỡ, chia lìa, mất mát…
Tháng tư chiến trường vang dội
Bão tố mờ mịt đất trời
Ta như bèo bọt rã rời
Lạc nhau giữa dòng nước chảy
Giặc về đồng khô cỏ cháy
Mẹ nằm còi cọc trơ xương
Em đành bán phấn buôn hương
Nuôi cha rừng sâu tù rạc
Tháng tư hoa trôi bèo giạt
Gặp nhau bên rào trại giam
Một vạt nắng rớt vội vàng
Trên mắt em hoe hoe đỏ
“Ái phi” ngày xưa còn đó
Trơ vơ tấm thân đã tàn
…
Tháng tư như lưỡi dao sắc
Bạo tàn cắt nát tim ta…
(Nhật ký tháng tư)
Xé tờ lịch cũ, tháng tư
Dường như lòng chợt nát nhừ dấu dao
Dường như sông nước ba đào
Từ âm hư bỗng ào ào bão giông
Xé tờ lịch cũ, khóc ròng
Nổi trôi vận nước triệu dòng lệ tang
Xé tờ lịch cũ tan hoang
Tháng tư, lịch sử bàng hoàng sang trang.
(Tháng tư, xé tờ lịch cũ)
Về cảnh đày đọa lao tù thì tôi đã
nói ở phần trên qua bài thơ “Đọc Kiều, ở rừng Xuyên Mộc”, tôi chỉ xin ghi thêm
vài hàng thơ anh ở đây.
Sáu năm tù ứ hự
Tau thành kẻ bất tri
Hàn nhân phong vị thú
Giận đời, tiếu hi hi!
Mười năm thề bỏ rượu
Gặp bạn bỗng hóa cuồng
Rượu như dòng nước lũ
Trào dâng – lệ tuôn tuôn.
(Sáu năm rồi cố xứ)
Thơ anh cũng phản ánh nỗi cô đơn của
chính anh qua thân phận người lưu xứ, với bao đổi thay đen trắng, bao buồn vui
về thói đời…
Ðêm Cali nhớ Sài Thành
Rượu Sài Thành nhớ bài hành phương xa
Hành phương xa nhớ trăng tà
Ôi, thân viễn xứ còn ta nhớ người
Xin nhau một chút môi cười
Ðể đưa vui giữa cuộc đời lao đao.
(Hai-Lục bát tình)
“Xin nhau một chút môi cười, Ðể đưa
vui giữa cuộc đời “…lưu lạc! Được không khi lòng người đã đổi thay vì đồng
tiền, vì danh vọng?
Những Dũng, những Hoàn, những Lê,
những Cửu
Mỗi đứa một phương trôi nổi như mây
Từ lúc lui quan, tau thề bỏ rượu
Bỏ rượu…mới hay tau thất lạc bây.
Nhớ thời chiến tranh gặp nhau Mộc
Hóa
Tan trận về kinh bữa mắm bữa chao
Uống ngụm nước sông chợt cười khoái trá
Hút hơi thuốc “chùa” để thấy thơm râu.
Nhớ bậu sang sông bậu về bến lạ
Một đứa thất tình, cả bọn như điên
Lít đế cưa đều chửi thề tá lả
Hận kẻ bạc tình: đứa ngã đứa nghiêng.
Nhớ lát mì khô trại giam Xuyên Mộc
Nuôi vạn tù binh phá núi trồng rau
Nhân phẩm thua xa cục đường tán mốc
Thằng đói nuôi thằng lỡ vận ốm đau.
Nhớ lúc ra tù đời lăn đời lóc
Ðứa bán cà rem, đứa đạp xe ôm
Gặp nhau đói meo choàng vai bật khóc
Nắm tay nhắc thầm: giữ chút danh thơm.
Bây giờ tụi bây cửa rộng nhà cao
Quên mất một thời quá khứ thương đau
Vỗ ngực xưng danh anh hùng mã thượng
Tửu hậu trà dư thóa mạ lẫn nhau.
(Tau thất lạc bây)
“Bây giờ tụi bây cửa rộng nhà cao
Quên mất một thời quá khứ thương đau” và rồi “Tửu hậu trà dư thóa mạ lẫn nhau”.
Ối thói đời, Thi sĩ cô đơn là cái chắc!
Cái sự đời chẳng khác cuộc chơi
Thằng mạt rệp như tau lại khơi khơi qua Mỹ
Nhớ bạn bè tìm tri âm tri kỷ
Đốt đuốc mười năm vẫn chỉ mình ta
Tau biết bây giờ tụi bây đỏ thịt thắm da
Uống sữa riết thân hóa thành kẻ lạ
Thằng nào cũng muốn làm cha thiên hạ
Nên kéo đời tư nhục mạ lẫn nhau
Tụi bây quên năm tháng thương đau
Quên đồng đội nằm chưa yên mồ mả
Một lần nữa…ta thêm lần quỵ ngã
Giống như lần thất trận ngày xưa.
(Thất trận)
Thôi thì “Rót ly sảng khoái. Ta cười
với ta”. Ta lại mời ta!
Rượu dư. Ghế trống. Ðêm dài.
Bạn vơi. Tình cạn. Ðời đầy vết đau.
Ðếm mưa. Giọt trước. Giọt sau
Ðếm ta. Chợt nhớ bạc đầu sáu mươi.
Ừ thì…Mừng tiếp cuộc chơi
Rót ly sảng khoái. Ta cười với ta.
Rượu dư. Ghế đợi bạn già
Tình ngao du
Cõi ta bà nào xa?
Ở đây. Trơ trọi mình ta
Xuân sau. Xuân trước. Vẫn là xuân ta…
(lục tuần xuân)
Và cuối cùng “thắng cuộc / thua
cuộc”. Được gì?!
Thắng chỉ để làm thằng nô bộc
Còn thua thì…lạc mất quê hương.
III. KẾT
Để kết bài “cảm nhận” này, tôi xin
được dẫn ra đây lời tâm sự của chính Thì Sĩ Phạm Hồng Ân:
“Goethe viết : ” Những thi nhân cận
đại đã hòa quá nhiều nước lã vào mực.” (Modern poets mix too much water with
their ink.).Tôi không đến đỗi kiêu căng đổ nước lã vào ngòi bút, làm nhợt nhạt
đi nét đẹp của thi ca. Tôi làm thơ với tất cả tấm lòng, trái tim. Chữ nghĩa đẫm
ướt từ máu, từ nước mắt của nỗi đau nhân thế, và của chính mình. Hãy để thơ tôi
tự do, bay bổng theo ý thích ngôn ngữ
Có ai làm thơ mà không có một lần cô
đơn bao giờ? Có ai lên đỉnh cao, dù đỉnh “hy vọng” hay “tuyệt vọng” mà không
cảm thấy lẻ loi bao giờ? Tôi ở trạng thái đó trong thời làm thơ với bạn học,
trong thời quá vãng của cuộc chiến, trong thời bị bỏ rơi, bị hành hạ nơi lao
tù…
Trong “cái cô đơn” còn có “cái mạo
hiểm” gắn bó. Thời Tản Đà, ông đã từng thốt “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”.
Biết vậy, gần năm mươi năm qua, tôi vẫn lì lợm nhào lộn trong thế giới văn
chương rẻ rúng đó. Thê thảm hơn, THƠ là loại văn chương ít người đọc nhất, cũng
không phải là một nghề mưu sinh, thế mà nó vận vào thân như mệnh số trong gần
suốt một đời người. Như vậy, có phải mạo hiểm chăng? Trong “chốn hạ giới” này,
TRI KỶ TRI ÂM dễ có mấy ai? Tôi cứ lì lợm nhào lộn trong thế giới chữ nghĩa của
mình.
Thơ là ngôn ngữ tuyệt đỉnh của văn
chương. Nó chuyên chở tình yêu. Bộc trực, hào khí. Thử thách sự thủy chung.
Ngạo nghễ trong ngục tù. Nó xót đau niềm vong quốc. Dày vò kiếp tha hương, Nó
tiếp cái hùng tráng thiên cổ…ngậm ngùi cho tới nghìn sau.
Tôi muốn viết về những điều này, hơn
mấy chục năm qua, nhưng… khi viết lên, lại chẳng phô bày được điều gì. Thơ tôi
chỉ là những mảnh vụn của sỏi đá, là giọt nước của ao tù, là tia nắng mỏng manh
cuối ngày, là viên đạn lép trong nông súng đã ri, là thư ngôn ngữ bất lực của
một thế hệ chịu lắm đọa đày.
Trong nỗi tột cùng thất vọng đó, may
mắn thay, tôi còn ghi lại được dăm kỷ niệm ngọc ngà, vài hình ảnh vàng son đã
qua…bằng một rung cảm chân thật của thi ca,
Xin bạn hãy thân tình xem tập thơ
này là một thứ tiêu khiển trong giây phút nhàn nhã, tựa như bạn nhấp một chén
trà hay chiêu một cóc rượu cùng bằng hữu cố trí ” (PHẠM HỒNG ÂN)
Sau cùng, xin được vài lời cùng Thi
Sĩ: Thi hào Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh ký có hai câu cuối:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Chẳng hiểu rồi ba trăm năm nữa,
Thiên hạ còn ai khóc Tố Như ?(Nguyễn Ngọc Bích dịch)
Ba trăm năm sau (thiên cổ) ai là
người hiểu , khóc cho Nguyễn Du.
Phạm Hồng Ăn có một thi tập “Thiên
Cổ Bùi Ngùi”, thơ hoài niệm, bùi ngùi thương về chuyện xưa , chuyện quê hương
của thời “dâu bể”. Ý của tác giả chắc cũng mong cho người sau này, khi đọc lại,
sẽ bùi ngùi khóc thương. Khóc thương gì?
Khóc thương theo những áng thơ và…
cũng khóc thương cho AI làm ra nó!
Chẳng hiểu rồi ba trăm năm nữa,
Thiên hạ còn AI khóc AI đây?
Phải không Thi Sĩ?
Nguyên Lạc
(4/
2017)
—————————————————————————————————————–
Ghi chú:
(*): Xuyên Mộc là một huyện có diện
tích lớn nhất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, khoảng 642,18 km², phía đông giáp huyện
Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận; phía tây giáp huyện Châu Đức và Đất Đỏ; phía nam giáp
biển Đông, phía bắc giáp huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.(Wikipedia)
(**) Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai!
Miệng ăn măng trúc, măng mai